,
221
4821
60 năm CHXHCNVN
vanhoimoi
/vanhoimoi/
760398
Con người và tri thức- yếu tố sống còn của nền GD
1
Article
null
,

Con người và tri thức- yếu tố sống còn của nền GD

Cập nhật lúc 19:39, Thứ Bảy, 28/01/2006 (GMT+7)
,

(VietNamNet) - Một mùa Xuân mới đang về trên quê hương Việt nam yêu dấu. Đó là mùa Xuân của hy vọng, của tương lai tương sáng và cả những thách thức đang chờ đợi. Sự thách thức ấy đặt gánh nặng lên đôi vai của những người làm công tác Giáo dục, bởi một xã hội tươi đẹp cần có "Minh quân, Lương tướng" và "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia".

Góp phần cùng công cuộc đổi mới ấy, chúng tôi, những Nghiên cứu sinh của Quỹ học bổng VEF, đang theo học tại Mỹ, ở nhiều chuyên ngành khác nhau, xin được đóng góp cách nhìn của mình vào một chủ đề không bao giờ cũ: Con người trong môi trường Giáo dục Đại học hiện đại của Việt nam, và xin đề xuất 10 diểm sau:

Phát huy truyền thống và mạnh dạn áp dụng những tư duy mới: Người Việt nam có truyền thống ngàn năm "Tôn sư trọng đạo". Đó là một truyền thống quý giá và hơn cả, đó là một phong cách sống và cư xử. Các giáo sư Mỹ, thường ngạc nhiên và thích thú khi làm việc với học sinh Việt nam, bởi sự kính trọng mà các học sinh Việt nam dành cho họ, không giống với cách thể hiện của các học sinh phương Tây. Truyền thống này cần được phát huy, tuy nhiên, trong một khung cảnh mới, đó là sự bình đẳng giữa một nhà khoa học thế hệ trướcmột nhà khoa học thế hệ sau, và chấp nhận những quan điểm khoa học không đồng nhất. Khoảng cách giữa thày và trò ở Việt nam cần được thu hẹp lại, với tư duy cởi mở hơn, với thói quen tranh luận một cách lành mạnh.

Linh hoạt trong một môi trường năng động: Để liên tục cập nhật được kiến thức mới và đáp ứng được sự thay đổi của yêu cầu thực tế, các giáo viên, giáo sư đại học có toàn quyền thiết kế bài giảng, giáo trình, sách đọc, cách giảng dạy và chấm điểm. Họ đồng thời hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung bài giảng và chất lượng sinh viên. Mỗi năm, bài giảng được thay đổi, cập nhật thông tin và các xu hướng mới, kể cả thay đổi hoàn toàn những bài kiểm tra, để theo kịp kiến thức hiện tại. Sinh viên có toàn quyền góp ý về bài giảng, về nội dung, và đánh giá khoá học theo ý kiến riêng của họ. Sự tương tác giữa thày và trò mang lại chất lượng ngày một cao hơn cho khoá học ở những năm tiếp theo với một hình ảnh luôn luôn được tự làm mới. Trong khoá học, lực lượng trợ giảng đóng một vai trò đáng kể, và là cơ hội thuận lợi cho họ thực hành khả năng giảng dạy ngay từ khi còn là sinh viên. Vị trí trợ giảng cũng mang lại một nguồn tài chính đáng kể và được đánh giá cao trong lý lịch khoa học sau này.

Tự trọng và kỷ luật nghiêm khắc: danh dự và đạo đức học tập được đặt lên hàng đầu, đó chính là đề cao giá trị cá nhân và cái tôi của mỗi nhà khoa học. Tất cả các trường đại học lớn đều có hệ thống Luật danh dự (Honor code) được tôn trọng triệt để. Tất cả mọi hình thức gian lận trong thi cử, nhận trợ giúp khi không được phép đều chịu kỷ luật nặng nề theo hình phạt từ Toà án danh dự lập ra bởi sinh viên. Hình thức kỷ luật thấp nhất thường là đình chỉ học tập một năm, không được phép tham gia các hoạt động chung của sinh viên. Đạo văn (plagiarism) cũng được đánh giá nghiêm trọng không kém, như một hình thức ăn cắp tri thức của người khác, dù chỉ là một câu nói hay một ý tưởng. Luật danh dự và bản quyền cũng áp dụng tương tự đối với Giáo viên hay trợ giảng, hay bất kỳ một người làm khoa học nào. Người vi phạm không thể nói lời xin lỗi, chỉ có thể chấp nhận kỷ luật mà thôi.

Đánh giá đúng năng lực và sử dụng đúng người: Không chỉ riêng giáo dục, ở các nghành khác tại Việt nam vẫn tồn tại đánh giá năng lực của một con người thông qua 2 yếu tố chính: Đức và Tài. Thực sự, đây là hai khái niệm mơ hồ và mang tính chủ quan, không có tiêu chuẩn nhất định. Một phong cách ăn mặc hơi lập dị, một phát ngôn không đúng lúc có thể được coi rằng kém Đức, mà Tài luôn luôn chỉ ở vị trí thứ hai. Việc sử dụng người cần thoát ra khỏi những khái niệm đó và nó chỉ bao gồm chất lượng của công việc (với những tiêu chuẩn cụ thể) và không vi phạm pháp luật. Một giáo sư danh tiếng tại trường Đại học North Carolina, vẫn thường xuyên thổi saxophone tại một quán bar, với một phong cách ăn mặc kỳ lạ, và hình ảnh của ông vẫn rất đẹp trong mắt tất cả đòng nghiệp và sinh viên.

Nâng cao sức cạnh tranh của bằng cấp: cũng là sự tôn trọng giá trị thực của bằng cấp. Chúng ta vẫn có quá nhiều những tiến sĩ giấy, tiến sĩ ảo với những công trình khoa học vô tác dụng, hoặc kết quả của những công trình nghiên cứu có thể đoán đuợc trước khi thực hiện. Đó là kết quả của nền giáo dục thiếu tính cạnh tranh, và ở mức độ hiểu biết thấp. Những công trình khoa học ở cấp độ Tiến sĩ cần phải có một hội đồng thẩm định khách quan, ở trình độ quốc tế, và có thể phải có sự góp ý của các chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực đó ở cả trong nước và nước ngoài. Một tấm bằng hoàn toàn có thể dược cấp bởi chính trường Đại học đó, và chất lượng công việc của người mang bằng thể hiện thương hiệu của nhà trường.

Thái độ cầu thị và hợp tác trong lĩnh vực khoa học: Chúng ta nên tận dụng tối đa sự giúp đỡ và hợp tác với các nhà khoa học nước ngoài cũng như các nhà khoa học Việt kiều. Đó là một nguồn lực sẵn có và là một nguồn tri thức cần được khai thác. Tiếp nhận ý tưởng mới, dẹp bỏ sự đố kỵ trong khoa học là xu hướng tất yếu để rèn lưyện một moi trường khoa học và giáo dục lành mạnh. Sự trao đổi hợp tác có thể bắt đầu ngay từ những cá nhân mà không nhất thiết chờ đợi hoặc kỳ vọng sự trợ giúp chính thức được ký kết.

Chấp nhận thử nghiệm hệ thống giảng dạy và tính điểm có khả năng cạnh tranh cao: các kỳ thi tuyển lựa vào đại học ở Việt nam thường rất khó khăn, có thể còn khó khăn hơn nhiều nước phương Tây. Nhưng khi đã trở thành sinh viên, nhìn chung tất cả đều tốt nghiệp, cho dù kết quả học tập thấp hoặc thi lại nhiều lần. Điều này tạo nên một áp lực học tập rất thấp. Trong một môn học ở Việt nam, điểm trung bình trên 5/10 được coi như hoàn thành, nhưng ở các trường đại học khác trên thế giới, ít nhất cần đạt được 70-75%. Và mỗi sinh viên chỉ có quyền đựoc điểm thấp hơn mức này 2 lần trong suốt một chương trình đào tạo Tiến sĩ, nếu không muốn bị buộc thôi học. Trong các lớp học thường thì khoảng 30% sinh viên đứng đầu lớp được điểm A, 40% đạt điểm B, còn lại đạt điểm C. Hiếm có lớp học 100% sinh viên đạt được điểm A. Vì vậy, muốn đạt được điểm A các sinh viên phải phấn đầu cạnh tranh nhau để đạt được kết quả cao trong học tập.

Phát triển hệ thống đánh giá kết quả học tập dựa trên quan điểm đánh giá toàn bộ quá trình học. Để hoàn thành một khoá học ở các trường đại học ở các nước có nền giáo dục cao, các sinh viên phải nỗ lực trong toàn bộ khoá học. Số điểm của một môn học là một luỹ tích của rất nhiều bài tập, thực hành, dự án, kiểm tra giữa kỳ, cuối kỳ bao gồm rất nhiều kỹ năng khác. Khoá học cũng như một cuộc đua đường dài, mà chỉ cần đuối sức ở một chặng, có thể ảnh hưởng đến kết quả của toàn cục. Đánh giá kết quả học tập theo quá trình có nhiều lợi ích cho việc đào tạo sinh viên ưu tú. Sinh viên không phải chịu áp lực lớn cho kỳ thi cuối kỳ như ở Việt Nam. Do phải làm nhiều bài tập; thực hành; dự án, sinh viên được áp dụng ngay những kiến thức thu thập trong quá trình học tập. Kết quả học tập phản ánh khách quan hơn việc tiếp thu, áp dụng kiến thức của sinh viên. Việc đánh giá kết quả học tập chỉ dựa vào duy nhất kỳ thi cuối kỳ đễ tạo thói quan cho sinh viên "nước đến chân mới nhảy", kết quả học tập mang tính đầy may rủi do chỉ được phản ánh trong kỳ thi cuối cùng. Sinh viên chỉ cần "ôn thi" để qua "kỳ thi" chứ chưa quan tâm đến việc áp dụng và tìm tòi và phát triển những kiến thức mới. Thậm chí việc chấp nhận cho thi lại, ôn thi, luyện thi ở Việt nam một cách tương đối thoải mái, điểm thi lại được công nhận chính thức trong bảng điểm vừa mang tính tiêu cực vừa thiếu sự công bằng.

Đẩy mạnh năng lực viết và xuất bản: Năng lực công bố, xuất bản các công trình nghiên cứu khoa họcthước đo tri thức của các nhà khoa học. Chúng ta có một tỷ lệ xuất bản trên các tạp chí khoa học uy tín quá thấp so với các nước khác trong khu vực và thế giới. Chúng ta cần bắt buộc (với đội ngũ giáo sư) và khuyến khích (với đội ngũ sinh viên) tham gia việc xuất bản các công trình khoa học trên các tạp chí khoa học quốc tế và viết sách. Đó là một thách thức lớn, nhưng cũng là sự vinh dự cho bất kỳ nhà khoa học nào. Sự thiếu tự tin vào bản thân, cũng như thiếu tự tin ở kết quả nghiên cứu là một rào cản đáng kể cho việc xuất bản.

Ngoại ngữ là một yêu cầu bắt buộc: Tiếng Việt không phải là một ngôn ngữ phổ thông trên thế giới, vì thế biết ít nhất một ngoại ngữ phổ biến ở mức độ cao (đọc, viết, giao tiếp thành thạo) là yêu cầu không thể thiếu với một giáo sư hay một sinh viên có tham vọng trở thành nhà khoa học trong thời kỳ Việt Nam trao đổi, hợp tác quốc tề về khoa học. Nếu không có chiếc chìa khoá này, mọi ngả đường vào khoa học hoàn toàn bịt kín. Và bắt đầu học ngoại ngữ không khi nào là muộn với bất cứ ai. 

Mười điểm đề xuất trền được rút ra từ những quan sát, kiểm nghiệm và tâm huyết của nhóm lưu học sinh VEF học tại các trường hàng đầu tại Mỹ vói mong muốn nền giáo dục nước nhà "tăng tốc" để đào tạo "nhân tài" tầm cỡ quốc tế. Nhóm tác giả mong muốn được sự trao đổi, thảo luận với các độc giả về chủ đề này.

Xin được gửi tới quý vị độc giả vài lời tâm giao trên. Xin kính chúc quý vị và gia đình một năm mới hạnh phúc, an khang và thịnh vượng.

Nhóm tác giả:

  • Nghĩa Nguyễn – PhD student- Public Health trường đại học UNC-CH.
  • Thắng Trịnh - PhD student- Public Health trường đại học UNC-CH
  • Phương Phạm – Ms student – Chemical Engineering trường đại học Stanford Anh : Trợ giảng tại Đại học UNC-CH 
,
,