221
447
Giáo dục
giaoduc
/giaoduc/
1139186
Giảng viên ĐH: Lời cảnh báo của con số
1
Article
null
Giảng viên ĐH: Lời cảnh báo của con số
,

 - Một trong những yếu tố hàng đầu tạo nên chất lượng đào tạo của một trường ĐH là số lượng và chất lượng hàng ngũ giảng viên (GV). Ở đây, số lượng rất quan trọng, nhưng chất lượng (hay cơ cấu thành phần - phần trăm tiến sĩ (TS), giáo sư (GS) …) còn quan trọng hơn.

Bài 1: Giáo dục đại học Việt Nam từ góc nhìn ngoài nước

 Số lượng và chất lượng

Sinh viên tốt nghiệp loại giỏi là nguồn cung cấp giảng viên ĐH. Ảnh minh họa
Vì khác hẳn ở bậc trung học (trước đây là trường cấp hai hay cấp ba), trọng trách của một giảng viên đại học rất lớn. Họ không chỉ là giảng bài, càng không phải giảng bài theo kiểu cũ tức “thầy đọc và trò ghi” mà phải luôn tiếp cận với kiến thức mới để cập nhật vào bài giảng và sử dụng phương pháp giảng dạy mới. Điều đó yêu cầu một giảng viên đại học thực thụ phải là một chuyên gia về một chuyên ngành nhất định. Chức năng này chỉ có thể hình thành qua thực tiễn nghiên cứu và triển khai. 

Giảng viên đại học, do đó, bắt buộc phải tham gia công việc nghiên cứu khoa học, hoặc vận dụng những kiến thức mới mẻ vào hoạt động thực tiễn, đồng thời có nhiệm vụ hướng dẫn, tổ chức sinh viên trong những hoạt động như vậy, xem đó là một trong những nhiệm vụ chính của mình. 

Ở một trường đại học, nếu chỉ có hoạt động dạy và học, còn các giảng viên chỉ biết giảng dạy theo kiểu “thầy đọc, trò ghi”, và chỉ biết có vậy thôi, thì trường đại học đó, như người ta gọi đùa, chỉ là trường “phổ thông cấp bốn”, và chất lượng dạy và học ở đây chỉ ở mức “cơm chấm cơm”.  

Vì lẽ đó, nhiều trường đại học đã xem học vị tiến sĩ “thứ thiệt” hay các chức danh chuyên môn ở các viện nghiên cứu như: nghiên cứu viên, nghiên cứu viên chính, nghiên cứu viên cao cấp v.v… là những “giấy thông hành” để bước lên giảng đường đại học, hoặc để được chọn trao trách nhiệm cao hơn như: giáo sư (giáo sư nghiên cứu, giáo sư mời giảng, giáo sư thực thụ, giáo sư danh dự nói chung v.v.…) phụ trách một môn học, một bộ môn, một khoa, một hướng nghiên cứu v.v…  

Và cũng vì thế, để đánh giá đẳng cấp một trường đại học không thể không căn cứ vào số lượng tiến sĩ (TS), giáo sư (GS) của trường này, đồng thời cả số lượng công trình được công bố trên các tạp chí chuyên ngành có uy tín, những giải thưởng khoa học mà họ đạt được...  

Tất cả các hệ thống xếp hạng trường đại học của US News and World Report, Times Higher Education Supplement (THES), Maclean University Ranking, The Guardian University guide, Đại học Giao thông Thượng Hải… đều đưa ra tiêu chí về số lượng TS, GS hay tỉ lệ số lượng TS, GS so với tổng số GV (TS,GS/GV). Yếu tố này chiếm những trọng số khá cao trong đánh giá xếp hạng. Cũng là dễ hiểu khi giá trị trọng số này sai khác nhau giữa các tổ chức hệ xếp hạng khác nhau trên thế giới.  

Chẳng hạn, với Maclean University Ranking trọng số liên quan chỉ tiêu tiến sĩ và giáo sư khoảng 34%, với Guardian University Guide là 35%. Và với THES chỉ số này được phân ra rất chi tiết như: phần trăm giáo sư người nước ngoài; tỉ số sinh viên (SV) và giáo sư (SV/GS); số công trình có uy tín được công bố…, nhưng tổng cộng cũng khoảng 40%.  

Trong thời gian gần đây, ở nước ta, Bộ GD-ĐT đang hoàn chỉnh bảng tiêu chí đánh giá các trường đại học, cao đẳng thích hợp với điều kiện và mục tiêu của Việt Nam. Những tiêu chí đó hẳn không chỉ để xếp hạng thứ tự các trường mà còn nhằm vào việc khắc phục, hoàn thiện hơn những mặt non yếu hiện nay của GDĐH Việt Nam. Trước hết là những non yếu của đội ngũ giảng dạy ở các trường ĐH và CĐ.  

Đó cũng là một trong những lý do phải quan tâm đến sự tìm hiểu và đánh giá chính xác, không chỉ về chất lượng GDĐH nói chung, cả về chất lượng đội ngũ giảng dạy ĐH và CĐ nói riêng.  

Thiếu và yếu

Vấn đề chất lượng giảng viên ĐH nên bắt đầu với con số thống kê mới nhất (tháng 8/2008) của Bộ GD-ĐT: Cả nước hiện có 369 trường Đại học, Cao Đẳng , Học viện (số trường ĐH: 160, CĐ: 209). Số sinh viên cả nước hiện nay là 1,6 triệu nhưng chỉ có khoảng 52.000 giảng viên.

Như vậy, số sinh viên trên một giảng viên SV/GV trung bình là 28. Với nhiều trường ngoài công lập, con số này chắc chắn còn cao hơn nhiều, đó là chưa kể sự sai lệch bởi những con số ảo trong những báo cáo hoặc thuyết minh xin thành lập trường mới, ngành mới...  

Ngoại trừ những trường đại học hàng đầu thế giới như Đại học Harvard có tỉ số SV/GS là 3,5 và tỉ số SV/GV là 23/2, các nước có nền giáo dục đại học tiên tiến nói chung có tỷ lệ SV/GV nằm trong khoảng 15 - 20. Đối chiếu với chuẩn trung bình quốc tế trên đây, và con số trung bình 28 sinh viên trên 1 giảng viên, hiện ngành Giáo dục Đại học nước ta thiếu khoảng 30.000 - 50.000 thầy cô giáo, tương đương với con số mà một vị lãnh đạo Bộ GD-ĐT đưa ra: “Số giảng viên của ngành đại học nước ta chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu”.

Nạn thiếu giảng viên ở nước ta như vậy là khá trầm trọng, không biết sẽ còn bao nhiêu năm nữa mới có thể bù đắp được sự thiếu hụt đó.

Không chỉ thiếu mà còn yếu. Về điều này, chính vị thứ trưởng nói trên cũng thừa nhận: do giảng viên lên lớp quá nhiều giờ, không có thời gian đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học, biên soạn giáo trình, bài giảng… nên chất lượng đào tạo rất hạn chế.

Một trong những thước đo chính xác chất lượng giảng viên đại học là thành tích nghiên cứu khoa học của họ. Chúng ta thử đối chiếu thành tích nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học hàng đầu nước ta và Thái Lan qua số lượng bài báo công bố trên tạp chí chuyên ngành quốc tế (xem cột 2, bảng 1), chất lượng bài báo hay số trích dẫn trung bình một bài báo (xem cột 3, bảng 1) và vai trò đóng góp của tác giả trong nước trong tập thể tác giả bài báo (xem cột 4, bảng 1).

Bảng 1: Thống kê bài báo KH công bố quốc tế của một số ĐH Việt Nam và Thái Lan năm 2004. Nguồn tư liệu gốc: ISIKOWLEDGE   

 Tên các đại học số bài trung bình  trích dẫn

tác giả dẫn đầu      trong nước

tác giả dẫn đầu ngoài nước

      số bài trích dẫn trung bình số bài trích dẫn trung bình
ĐHBK Hà Nội 13 6,7 4 2,5 9 8,6
ĐHQG Hà Nội 28 6,9 7 5,3 21 7,4
ĐHQG TP. HCM 26 4,2 19 4,1 7 4,4
ĐH Chulalongkorn 416 9,4 295 7,1 121 15,3
ĐH Mahidol 465 11 320 8,3 145 16,9

Rõ ràng, từ bảng so sánh ở trên, có thể nhận thấy chất lượng đội ngũ giảng viên ở các Đại học hàng đầu VN và Thái Lan cách nhau một khoảng quá lớn. Riêng về số bài báo khoa học công bố thì khoảng cách đó đến những trên 10 lần! Cũng là công bằng nếu bổ sung thêm rằng, về phương diện bài báo khoa học công bố quốc tế, Singapore đứng đầu khu vực Đông Nam Á chứ không phải Thái Lan và Việt Nam trong vài năm qua đã vượt lên trên Indonesia và Philippines, còn Lào, Campuchia và Mianma chưa có mặt trong danh sách so sánh.   

Một thước đo đơn giản chất lượng giảng viên một trường đại học là cơ cấu thành phần giảng viên, cụ thể là số lượng tiến sĩ (TS), hay ở tỉ lệ TS/GV. Tỉ lệ này các trường ĐH nước ta chỉ mới đạt con số 12,43 %, trong lúc ở các trường đại học trung bình ở phương Tây là khoảng 70%. Với sự so sánh này, chất lượng lực lượng giảng viên đại học VN rõ ràng còn rất thấp.

Nếu so với mục tiêu (Nghị quyết 14-2005/NQ-CP) về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học (GDĐH) VN giai đoạn 2006-2020 cần đạt tới trong năm 2010 là trên 25% giảng viên đại học có trình độ tiến sĩ, và năm 2020 - trên 35% có trình độ tiến sĩ, chúng ta có thể thấy gánh nặng trên vai các trường đại học nước ta nặng nề và khó khăn đến mức nào.

Cũng cần lưu ý thêm rằng, sự phân bố giảng viên, đặc biệt giảng viên cao cấp (TS, GS…) lại không đồng đều. Phần lớn giảng viên trình độ cao tập trung ở các thành phố lớn. Còn các trường có lực lượng GV thiếu và phần lớn nằm ở vùng miền núi phía bắc, vùng Tây Nguyên và đồng bằng Nam bộ, ở các trường mới, trường ngoài công lập.

Lại bị pha loãng

Lực lượng cán bộ giảng dạy thiếu và yếu, vậy mà trong những năm gần đây, hàng loạt trường đại học mới ở nước ta cứ được phép ra đời với tốc độ chóng mặt. Chỉ trong vòng 3 năm, 2005-2008 có đến 20 trường đại học có quyết định thành lập (1 công lập và 19 tư thục), đồng thời nâng 28 trường cao đẳng được lên thành đại học và nâng 86 trường trung học chuyên nghiệp lên thành cao đẳng. Không biết quy trình báo cáo, thẩm định và xét duyệt để cấp phép mở trường mới diễn ra như thế nào? Đây quả là điều khó hiểu. Nhất là khi bản thân Phó TT, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân cũng tỏ ra băn khoăn: “Nhu cầu người học tăng nhưng chất lượng cũng gây lo lắng cho khá nhiều người. Vì thế cần làm rõ, cơ hội nào để vừa phát triển các trường đại học, cao đẳng vừa phải tăng chất lượng. Nếu không trả lời được thì chắc chắn sẽ không nhận được sự đồng tình của xã hội”.

Theo số liệu đã biết (Lao động 228, 2/10/2007), trong số 25 trường đại học mới thành lập có trường chưa có giảng viên cơ hữu nào là giáo sư (phó giáo sư) hoặc tiến sĩ như Đại học Hoa Lư, Đại học Trà Vinh, và có trường chỉ mới có 1-2 GS hay TS như Đại học Bạc Liêu, Phú Yên, Hoa Sen. Sư phạm Kỹ thuật Vinh.

Như vậy, một mặt số trường, lớp, ngành nghề đào tạo và nhu cầu lực lượng giảng viên tăng lên vùn vụt, mặt khác số lượng giảng viên nói chung hoặc giảng viên có trình độ cao (cử nhân khá giỏi, tiến sĩ và giáo sư) lại nhích lên chậm chạp. Điều này có nghĩa là lực lượng giảng viên ngành GDĐH vốn thiếu và yếu nay lại bị căng ra, bị pha loãng ra. Trong tình hình đó, chất lượng đào tạo khó có thể giữ vững, chứ chưa nói đến phải nâng cao như yêu cầu bức thiết đặt ra trong Nghị quyết 14-2005/NQ-CP. Theo đó, ngoài một số trường phải đạt đẳng cấp quốc tế với tỉ lệ SV/GV không quá 20, đến năm 2010 có ít nhất 40% GV đạt trình độ thạc sĩ và 25% đạt trình độ tiến sĩ. Và đến năm 2020, chỉ tiêu này cao hơn với ít nhất 60% GV đạt trình độ thạc sĩ và 35% đạt trình độ tiến sĩ.

Yêu cầu đó đòi hỏi những giải pháp toàn diện và đồng bộ mang tính lâu dài của nhà nước, những liệu pháp cấp thời và mạnh mẽ của ngành GDĐH và sự nỗ lực lớn lao của toàn ngành GD, của Nhà nước và của toàn xã hội.

Trần Thanh Minh

*************************

Ho ten: Thu
Dia chi: Ha Noi

Tôi là một sinh viên năm cuối sắp ra trường. Trường đại học tôi học là một trường công lập ở Hà Nội. Trường tôi cũng có chủ trương giữ những sinh viên học lực giỏi ở lại để đào tạo thành giảng viên. Tôi cũng là một trong số những trường hợp đó, vì tôi cũng có nguyện vọng được trở thành một giảng viên vì đây thực sự là một niềm đam mê của tôi từ khi mới bắt đầu bước vào trường. Tuy nhiên nếu xét trên thực tế trường tôi thì điều này thật khó vì có những trường hợp rất nhạy cảm, có trường hợp là con cháu ruột thịt của các cán bộ lãnh đạo cao nhất trong trường. Trường hợp này thi 2 năm liền không đỗ đại học, cuối cùng vào học Cao đẳng rồi sang năm thứ 2 chuyển sang trường tôi và được xếp vào lớp tôi học hệ đại học và từ đó điểm thi bao giờ cũng 9, 10. Kết quả học tâp thì cao ngất ngưởng, và giờ thì đứng đầu lớp nhưng năng lực thì tôi cũng không dám nói. Nhưng chắc chắn một điều mà tất cả thầy cô và mọi thành viên trong lớp tôi ai cũng biết là sau khi tốt nghiệp ra trường sẽ được giữ lại làm giảng viên. Tôi nghĩ đây là một thực trạng không chỉ tồn tại ở trường tôi mà còn diễn ra ở rất nhiều trường đại học khác. Vậy thử hỏi, chất lượng giảng viên đại học nước ta sẽ như thế nào. Trong khi đó, tôi cũng mong muốn được ở lại trường để có thể làm công việc mình luôn theo đuổi nhưng không hề dễ dàng vì tôi không hề quen biết hay...mà nếu chỉ dựa vào năng lực của mình thì thật khó. Thêm vào đó, tôi vẫn luôn băn khoăn, nếu được ở lại trường và làm công tác giảng dạy liệu mình có thể sống được với mức lương giảng viên không, chẳng lẽ lại để bố mẹ phải nuôi tiếp chăng, trong khi nếu ra làm việc ở các doanh nghiệp ngoài tôi nghĩ mình sẽ không phải lo lắng vể những chuyện đó. Cuộc sống của mình sẽ không đến nỗi nào.Vậy thử hỏi chất lượng giảng viên của chúng ta rồi sẽ ra sao?

Ho ten: phuong
Dia chi: 111

Chào các anh chị. Tại sao tôi nhận thấy các anh chị chia sẻ thông tin hiện tại của nền giáo dục mà không thấy rằng, hiện nay như vậy thì khắc phục thế nào, người tâm huyết với nghề thì cần làm gì và đề ra biện pháp cụ thể. Cứ như là chúng ta đang phê phán chính mình vậy.

Ho ten: alibaba
Dia chi: batdamarid

Theo tôi, các trường ĐH nên làm theo cách giống như trong bóng đá, phân loại trường ra các hạng A,B,C...và mỗi năm bộ đưa ra các tiêu chí đánh giá mới, trường nào đạt được tiêu chí nào thì cho nằm ở hạng đó trường nào không đạt thì cho xuống hạng (có lên hạng phải có xuống hạng) và công bố rõ ràng trên các phương tiện thông tin đại chúng....để thí sinh đi thi biết mà lựa chọ. Chứ như bây giờ chính tôi đã học xong ĐH rồi mà vẫn mù tịt thông tin về chất lượng các trường,thậm chí năm ngoái tôi hướng dẫn cho đứa em họ vào một trường ĐH nọ đến khi lên nhập học mới biết là trường DÂN LẬP nó chửi tui quá trời,mà vì tui cũng chỉ coi trong cuốn những điều cần biết của bộ mà trường chẳng có đề là tư thục hay dân lập hay công lập gì cả.kiểu thông tin mập mờ như vậy là không trung thực.

Ho ten: nguyễn sơn
Dia chi: Hà Nội
E-mail: pearl_river99@yahoo.com
Tieu de: Giao dục
Noi dung: Tôi đã từng là sinh viên đại học KTQD Hà Nội. Ngành tôi theo học là QTKD Quốc tế (liên quan nhiều đến thương mại quốc tế), vậy mà 04 năm học ra trường tôi nhìn tờ khai Hải quan không biết ghi như thế nào cho đúng, sự lạ lẫm làm cho tôi phải mất vài ngày nghiên cứu để đảm bảo ghi cho chuẩn xác, đúng (trình độ đại học mà thua xa người học lớp 5 khi họ làm các thủ tục XNK hàng trăm tấn hàng hóa, nhiều chủng loại hàng hóa hàng ngày. Sau 1 thời gian, tôi chuyển sang làm việc tại ngành tài chính, tôi thấy giữa thực tế các dịch vụ tài chính ngân hàng và các môn học, kiến thức học trong trường cách xa nhau quá. Vậy tôi chẳng hiểu học đại học để làm gì, khi cơ sở tư duy đã được đào tạo từ lớp 1 - 12. Cho nên, tôi đánh giá rằng: Việc các trường đưa vào quá nhiều môn học, rồi dạy và học mang tính dàn trải, đối phó và phong trào, dẫn tới kết quả dạy và học của Viêt Nam quá thấp, do vậy xã hội Việt Nam chưa phát triển được là đúng (Ý thức kém, trình độ kém). Tôi kiến nghị giáo dục Việt Nam cần sự thay đổi, cần có chính sách giáo dục: Trọng tâm - Chất lượng và đặc biệt cần nói lời tạm biệt đối với tư duy giáo dục chạy theo phong trào, hình thức. Có như vậy, Giảng viên mới có cơ hội nghiên cứu, sinh viên mới có cơ hội học hỏi, xã hội mới có cơ sở phát triển sánh vai với các cường quốc.

Ho ten: Anh Tuấn
Dia chi: Hà Nội

Tôi là một sinh viên và thực tế trong đáy lòng, tôi luôn tôn trọng những thầy giáo, những giảng viên của tôi. Họ là những người tôn trọng học trò nhất, những người quan tâm dến học trò nhất, và một điều chắc chắn rằng họ sẽ là những người đi tiên phong trong việc nghiên cứu khoa học. Nhưng vấn đề ở đây là trong công tác quản lý của bộ giáo dục chưa tốt, chưa tạo điều kiện cho giảng viên nghiên cứu khoa học, thiết nghĩ rằng với đồng lương ít ỏi mà sống trong một thánh phố đắt đỏ thì các giảng viên phải trườn ra làm thêm và không còn thời gian mà nghiên cứu khoa học. Và một sự thực nữa là cán bộ quản lý trong các trường đại học còn yếu kém và đặc biệt là rất "hách dịch" với sinh viên. Tôi và nhiều bạn nữa cũng đã nghĩ rằng, ko có chuyện gì quan trọng thì đừng có lên văn phòng khoa hoặc phòng quản lý đào tạo, lên trên chỉ có nghe nạt, mắng ... dù biết trình độ mình ko phải là thua họ.

Ho ten: Phạm Đức Thanh
Dia chi: Hà Nội

Tôi là một giảng viên trẻ. Câu chuyện giáo dục Đại học không biết đã tốn bao nhiêu giấy mực, bao cuộc họp hành, hội nghị nhưng hiệu quả đến đâu? Lại đổ lỗi cho cơ chế sao, khi còn quá nhiều bất cập đặc thù của xã hội nói chung cũng tồn tại song hành và đầy đủ trong ngành giáo dục nói riêng, tất cả đều biết nhưng tất cả đều chấp nhận. Khi chọn con đường làm giảng viên đại học, tôi tin rằng hầu hết giảng viên đều có sở thích và đam mê nghiên cứu khoa học, tìm hiểu học thuật và truyền đạt kiến thức kinh nghiệm cho các thế hệ sau. Nhưng với một giảng viên (đặc biệt giảng viên trẻ) thì nhà nước trả lương cho công sức họ bỏ ra là bao nhiêu? Liệu với đồng lương đó họ ăn gì để lấy sức nghiên cứu khoa học? Với một giảng viên trẻ khoảng 25 tuổi, nếu làm việc cho khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh trung bình họ nhận được 6-10 triệu đồng gấp 4 -5 lần lương nhà nước trả cho họ từ 1,5 – 2 triệu đồng. Thử hỏi họ sống như thế nào với 1,5 – 2 triệu đồng đó? Xã hội cũng có câu nói vui? Nghề giảng viên là nghề của “gia đình quí tộc” nghề của “nhà giàu”. Khi họ có gia đình hậu thuẫn sau lưng về kinh tế vững vàng thì họ có tiền đề thuận lợi hơn cho sự nghiệp cống hiến giáo dục. Nhưng đất nước ta tỷ lệ giảng viên “nhà giàu” chiếm bao nhiêu phần trăm hay đa số là “nhà nghèo học giỏi”? Chúng ta được học vật chất quyết định ý thức, thế thì hãy giải quyết mọi thứ đúng như thế trước đã. Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân hứa sẽ cải cách để giảng viên đại học có thể sống đựoc bằng lương. Tôi rất mong chờ điều đó. Khi đó mỗi giảng viên không còn phải lăn lộn đi làm thêm để nuôi nghiệp nhà giáo. Họ có thể cống hiến tòan bộ năng lực, thời gian, trí tuệ cho sự nghiệp giáo dục và phát triển khoa học mà không phải bận tâm tới miếng dưa củ hành như bây giờ.

Ho ten: Hoàng Nam
Dia chi: Hà Nội

Tất cả các giảng viên đại học đều muốn được nghiên cứu khoa học. Không ai muốn chỉ có dạy không cả! Tại sao họ phải dạy? Câu hỏi này giảng viên đại học nào cũng trả lời được. Duy chỉ có các nhà quản lý giáo dục lại ...cố tình không chịu trả lời! Thật là đau xót khi thấy mình phải lên lớp mà không có điều kiện nghiên cứu sâu vấn đề mà mình quan tâm và mình mong muốn mang lại kiến thức cho sinh viên! Chỉ có điều không dạy thì ...lấy tiền đâu ra để mà nghiên cứu khoa học. Đa số các giảng viên lên lớp nhiều đều là những người trẻ tuổi và điều này đồng nghĩa với việc rằng họ phải đi thuê nhà, phải kiếm từng đồng tiền đứng lớp một để rồi còn ...nghiên cứu khoa học. Thật buồn khi một chuyện như thế nhưng không ai chịu hiểu hoặc hiểu nhưng cố tình đổ lỗi cho ...giảng viên đại học!

Ho ten: Chom
Dia chi: Hanoi

Tôi nghĩ vấn đề nằm ở tư duy của chúng ta. Ai cũng mong ổn định có cái này có cái kia rồi mới đóng góp. Nếu thực sự là một giảng viên giỏi và đam mê với nghề thì chắc không bị phụ thuộc nhiều vào lương. Chẳng ai chịu hi sinh ban đầu, chẳng có niềm đam mê và ý thức cống hiến. Đọc nhiều câu truyện các nhà văn và khoa học nước ngoài khoảng thời gian thế kỷ 19 họ là những tấm gương sáng về đức hi sinh và sự cống hiến. Tư duy kiểu cố nông, và kiểu XHCN là hai nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.

Ho ten: Ngan Ngan
Dia chi: 123

Tôi là sinh viên mới ra trường, hiện đang làm ở một công ty lớn. Vì thích giảng viên, tôi thi về trường làm giảng viên. Có kết quả, tôi đậu cao. Vậy là bắt đầu mệt mỏi và suy nghĩ. Con người ta muốn làm việc tốt thì trước tiên cần phải sống tốt. Tôi không phải là người thực dụng, luôn nghĩ đến chuyện tiền lương, nhưng các bạn thử nghĩ xem, lương hiện nay của giảng viên quá thấp, thấp đến mức không đủ để trang trải khi sống ở SG này, chứ đừng nói chuyện đi so sánh với mức lương bên ngoài. Tôi vẫn đang phân vân, suy nghĩ...tôi muốn về làm giảng viên nhưng tôi muốn độc lập tự lo cho bản thân mình, không xin tiền nhà nữa. Vậy thì phải làm sao? Tìm thêm công việc bên ngoài Có ổn không? Ổn, nhưng như thế thì không có thời gian cho nghiên cứu...Cứ lẩn quẩn như thế...không giải quyết được gì cả.

Ho ten: nguyen Lam
Dia chi: Ha Noi

Giảng viên yếu kém là một điều đáng buồn, nhiều người dc giữ lại trường là nhờ thân quen với lãnh đạo khoa và trường, mục đích họ muốn kiếm một suất học bổng đi nước ngoài, và để được cái tiếng là giảng viên đại học cho oai. Tôi có người bạn thân được giữ lại làm giảng viên ở một trường đại học lớn ở hà nội, có nói với tôi rằng, cũng chạy phong bì cho lãnh đạo khoa khá là tốn tiền mới có được một suất ở lại trường.

Ho ten: Luyen
Dia chi: HaNoi

 Tôi là giảng viên đại học một số năm và chuyển sang làm quản lý, tuy vậy hiện nay tôi cũng vẫn tham gia giảng dạy ở trường ĐH. Theo ý kiến của tôi, việc thành lập một trường đại học mới hay nâng cấp một trường từ trung cấp, cao đẳng lên đại học cần phải được xem xét thật kỹ các điều kiện cần thiết. Thà chưa có còn hơn sinh ra một trường đại học thiếu và yếu đủ thứ từ cơ sở vật chất đến nhân lực. Trước mắt cần đầu tư vào việc nâng cấp các trường đã có, các trường không đủ điều kiện có thể xem xét chuyển xuống cấp cao đẳng, trung học. Để đảm bảo chất lượng thì không thể có trường đại học yếu về nhân lực và cơ sở vật chất phục vụ đào tạo được. Trách nhiệm này trước hết thuộc về Bộ GD-ĐT.

Ho ten: Nhu Y
Dia chi: Dong Da-HN

 Tôi thấy như trường ĐH của tôi từng học, thường con em giáo viên trong trường điểm rất cao, nhiều người đạt bằng giỏi một cách dễ dàng. Những người được trao bằng tốt nghiệp tượng trưng cho khóa thì chủ yếu là con em giáo vên trong trường. Những người này lại được nhận ở lại trường để giảng dạy và không có một động lực gì để phấn đấu trau dồi kiến thức. Không phải tất cả con em giáo viên trong trường là kém, nhưng tỷ lệ này hiện rất cao trong các trường ĐH Việt Nam. Không hiểu nổi bố mẹ họ, những giảng viên ĐH có con em ở lại trường, nghĩ gì khi chất lượng giảng viên trong các trường ĐH ngày càng đi xuống. Các giảng viên ĐH chủ yếu là đi "đánh quả" để kiếm sống thay vì làm nghiên cứu khoa học.

Ho ten: le.danh
Dia chi: TP.HCM

Tôi cũng là một gv. Ngành của tôi làm việc là ngành IT, ngành ’hot’ hiện nay. Lương gv đại học hiện nay không bằng lương thử việc của một sinh viên mới tốt nghiệp. Thầy đi dạy 6-7 năm mà lương còn thua trò mới thử việc lần đầu, theo bạn làm sao gv IT sống được? Dạy sô, kiếm tiền bằng các dự án bên ngoài. NCKH à, chỉ là đối phó thôi. Xã hội Việt Nam dường như không còn coi trọng người thầy. Nền giáo dục là sự sống còn của một dân tộc. Biết sao được. Bạn không trao quyền lợi thì đừng đòi hỏi người khác trách nhiệm. Cả một nền giáo dục nước ta lâu nay vẫn như thế.

Ho ten: Mr Lam
Dia chi: Danang

Tôi thấy một điều bất hợp lý. Hầu hết các trường đại học mới trường công thì chạy đua theo phong trào, trường tư thì xin được giấy phép thành lập để mục đích kinh doanh vì lợi nhuận hơn là mục đích phát triển đất nước. Để khi khi hàng vạn sinh viên ra trường kiến thức không có, không xin việc làm rồi các hệ đại học tại chức ghi danh rồi đến hẹn được tấm bằng tốt nghiệp. Tôi nghĩ bộ giáo dục là người đầu tiên chịu trách nhiệm việc nở rộ trường đại học và chất lượng đi xuống như thế này.

Ho ten: Trần Quang Ngọc
Dia chi: Allston, MA

 Trước khi so sánh về trình độ giảng viên các trường ĐH của Việt Nam và các nước, trước hết tác giả hãy so sánh về trình độ của lãnh đạo của các vị lãnh đạo cao nhất trước đã, sau đó sẽ là lương của các nhà khoa học, đầu tư cho nghiên cứu khoa học rồi mới nên so sánh các công bố quốc tế như vậy. Ở các nước lương của giáo viên không cao nhưng không phải là không đủ sống. Thử hỏi ở VN có ngành nào là tốt so với các nước. Vì vậy nếu GD và NCKH nằm trong xu thế chung đó là hợp lý rồi. Một câu hỏi tưởng như đơn giản nhưng không ai giám trả lời đó là: Tại Việt nam vẫn tự hào là thông minh nhưng vẫn là một nước nghèo và chậm phát triển nhất thế giới? Liệu tác giả có giám trả lời câu hỏi đó.

Ho ten: Lưu Quang Mạnh
Dia chi: Nam Định

Là sinh viên của một trường kinh tế, trên giảng đường tôi có rất nhiều ấn tượng với một số thầy cô giáo trẻ, đặc biệt là một số thầy cô vừa dạy trên lớp và vừa làm ngoài. Chúng tôi được nghe trên lớp không phải là những kiến thức đã có trong sách vở mà ai trong số chúng tôi đọc cũng có thể hiểu, mà cái quý hơn đó là việc vận dụng những cái đó vào trong thực tế. Tôi mong sao, trong tương lai chúng ta có được nhiều thầy cô như thế chứ không phải một như một thầy giáo "phó giáo sư đọc chép" như chúng tôi gặp phải ở trường tôi.

Ho ten: khothantoi
Dia chi: vimaru

 Tôi cũng tốt nghiệp đại học hàng hải. ra trường cũng lâu rồi, cũng làm giảng viên của trường thật, nhưng không giống các trường khác khoa chúng tôi có thể tự tạo ra đuợc cuộc sống tốt đẹp nhưng phải chịu khó làm việc, vậy mà rất nhiều giảng viên lười nhác, có tìm hiểu gì đâu mà các bạn sinh viên đòi họ có khả năng truyền thụ, các tiến sỹ chỗ chúng tôi cũng có, nhưng biết nói sao đây, vậy chúng ta có thể hiểu có tiền thôi chưa đủ, mà năng lực của mỗi cá nhân mới thực sự quan trọng.

Ho ten: Buồn cho giáo dục
Dia chi: Hà nội

Tốc độ tuyển sinh tăng quá nhanh trong khi giáo viên tăng nhanh nhưng khi đưa vào trường là dạy ngay theo kiểu "ăn đong" thế mới tài năng. Trường học 3 ca, học cả thứ 7 và chủ nhật. Tôi cũng đồng tình với ý kiến trên, giáo viên cao đẳng như chúng tôi lương khởi điểm ăn 85% chỉ có 1,2 triệu đồng thử hỏi chất lượng và công tâm với công việc thế nào.Đặc biệt là trong cơ chế nhà nước cực kỳ phức tạp vì cái "lọ cái chai" mệt lắm. Không hiểu có ai thấu hiểu cho giáo viên trẻ chúng tôi cái gì cũng sai nếu có phản ứng thì cho rằng láo và bị trù ghét. Dạy tốt cũng như dạy không tốt dẫn đến tình trạng làm vừa vừa thôi "cóc mổ cò xơi".

Ho ten: Naruto_1980
Dia chi: FPT

 Đại học chất lượng quốc tế ư? Liệu có được? Hãy nhìn vào thực tại. Cái này thì còn phải xem lại. Chỉ tiêu là chỉ tiêu, nhưng cốt lõi của vấn đề vẫn là ở giảng viên và sinh viên. Giảng viên thì chế độ đãi ngộ ra sao ? Rất nhiều thầy của tôi ( có thể nói là đầu ngành của trường cũng như của nước ta và cũng có chỗ đứng trên thế giới ) đã tâm sự với chúng tôi là lương các thầy cũng chỉ là hơn "4triệu/1 tháng". Nói như thế thì các bạn cũng đủ hiểu. Còn sinh viên thì khỏi cần nói, nếu ai đã từng học Đại Học thì cũng biết thái độ học của đa số sinh viên là như thế nào? Đến trường chỉ là để "điểm danh". Với thực tế như thế thì viễn cảnh giáo dục đại học ở việt nam sẽ sau này sẽ ra sao? Tôi thật không dám nói.

Ho ten: trần thị thư
Dia chi: 22

Tôi đang là sinh viên của một trường ĐH o HN. Tôi thấy GD đại học ở VN có quá nhiều yếu kém. Bệnh thành tích là một căn bệnh "nan y" khó chữa trong giáo dục ở VN. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây nên sự yếu kém đó. ọc tiếng Anh ở trường tôi là một điển hình của căn bệnh này. Cô giáo dạy tiếng Anh của chúng tôi nói rằng: vẫn biết là chống căn bệnh thành tích nhung không chạy theo thành tích không được. Cô cho chúng tôi biết trước đề kiểm tra để bọn tôi làm trước để kiếm điểm cao. Cô làm sẵn những topic để cho chúng tôi học thuọc trước khi thi...cô bảo là cô làm thế vì thương chúng tôi(?). Cả nước cứ hô hào nào là phải chống căn bệnh thành tích trong thi cử...nhưng đó chỉ là hô hào suông mà thôi và đó cũng là một thứ bệnh "thành tích". Giáo dục viẹt nam có một sức ỳ quá lớn và không thể dễ dàng thay đổi ngày một ngày hai được.

Ho ten: Đỗ Hùng
Dia chi: Hà Nội

Điều cần thiết lúc này , theo tôi đó là phải giảm chỉ tiêu tuyển sinh ĐH xuống để tỉ lệ SV/GV phù hợp (Không nên tăng số lượng giảng viên vì nó sẽ tỉ lệ nghich với chất lượng). Ngoài ra điều kiện tuyển giảng viên của các trường ĐH cũng phải khắt khe hơn - Đặc biệt là ở các trường ĐH mới thành lập ,đồng thời có chính sách thu hút giảng viên nước ngoài vào trong nước giảng dạy

Ho ten: Lê Văn Minh
Dia chi: SG

Tôi đã 31 tuổi, là bộ đội xuất ngũ. Hiện đang theo học một trường kỹ thuật được xếp vào top 5 trường kt mạnh nhất nhất Việt Nam. Và tôi cũng có cảm giác như bạn Phan:Cái mà em nhận được sau hơn 3 năm học không phải là kiến thức hay kinh nghiệm gì mà là sự thất vọng thất vọng về ngôi trường mình đang học". Nhiều lúc Tôi tự hỏi không lẽ các Trường ĐH ở Việt Nam đều như vậy sao? Không lẽ học chỉ để lấy bằng cấp thôi sao? Cũng từ tâm lý chán nản đó mà kết quả học tập của tôi củng rất tồi, xét về khía cạnh điểm số. Cho dù lúc đầu mọi người trong lớp đều rất nể phục ý chí và kiến thức của tôi. Còn giờ thì mọi người nghĩ là tôi đuối sức khi nhìn vào điểm số. Nhưng tôi thì không nghĩ vậy...Bởi tôi hiểu vấn đề của mình hơn ai hết.

Ho ten: MệtNghỉ
Dia chi: TP.HCM

Giảng viên chỉ có thể nghiên cứu khi thu nhập ổn định. Xác định cái nghiệp làm thầy không ai mong giàu có, có thể nhịn đói để học nhưng không thể nhịn đói để đứng lớp và nghiên cứu. Giải pháp này nọ toàn làm loạn xã hội lên. Tôi thấy chỉ cần quy định các GS, TS phải dạy thực hành 100 tiết/ năm thì chất lượng giáo dục sẽ lên thôi (dạy thực hành ít tiền nên GSTS không ai dạy)

Ho ten: anh win
Dia chi: DN

Đúng là Giáo dục ĐH Việt Nam có quá nhiều chuyện để bàn. Song có một chuyện về phía bản thân, tôi chia sẻ với bạn nobita: giảng viên trẻ, đặc biệt là giảng viên các ngành khoa học xã hội, những năm tháng dài được gọi là ... trẻ, lương không đủ để thuê nhà trọ và ăn sáng (nếu ở xã nhà bố mẹ), tức là cuộc sống của họ rất khó khăn. Tôi có người bạn học một mạch xong thạc sĩ, xin vào làm giảng viên ở một trường ĐH, đã hai năm nay bạn ấy làm công tác trợ giảng và soạn bài... và nhận lương mỗi tháng hơn 1 triệu một chút, thế là mỗi tháng phải xin tiền mẹ 2 lần... Sao nhà nước không quan tâm chuyện này nhỉ. Bạn bè tôi nhiều người rất giỏi ra trường không có chút mặn mà với việc ở lại giảng dạy mà muốn ra ngoài kiếm tiền hơn...

Ho ten: Nguyễn Hà
Dia chi: Thanh Hoá

Khi học trên giảng đường ĐH, đã rất thât vọng và chán nản với cách giảng dạy của rất nhiều giảng viên. Có người là tiến sĩ mà tác phong lên lớp, cách truyền đạt kiến thức thật nhạt nhẽo, thiếu chiều sâu.Chuyện "thầy đọc, sv chép" là muôn thuở. Bài giảng không có sức hút và tính thực tiễn thấp. Cứ như thế, hàng ngàn sinh viên ra trường mỗi năm vô cùng bỡ ngỡ khi vận dụng kiến thức đã học vào thực tế, thậm chí không tìm được việc làm...Các trường ĐH, CĐ cứ mở thêm chuyên ngành, nhưng lại không quan tâm đến chất lượng và chuẩn hoá GV. Cần có nhiều chính sách điều chỉnh và nâng cao yêu cầu đối với những người làm công tác giảng dạy để họ ý thức rõ hơn vai trò của mình trong công tác đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.

Ho ten: Phan
Dia chi: HBT Hà Nội

Em là sinh viên năm cuối của một trường đại học lớn ở Hà Nội! Cái mà em nhận được sau hơn 3 năm học ko phải là kiến thức hay kinh nghiệm gì mà là sự thất vọng thất vọng về ngôi trường mình đang học!dạy hình thức!mùa thi là mùa chạy tiền thầy cô!vẫn thầy đọc trò ghi!những môn chuyên ngành em học rất lố bịch!có môn chỉ suốt ngày học vè khái niệm cái này là gì,phân tích khái niệm đó ntn?chỉ thế thôi!người dạy cái môn cần liên hệ thực tế lại như thế.

Ho ten: Thang Long
Dia chi: HP

Tôi tốt nghiệp trường ĐH Hàng Hải Việt Nam đã được 11 năm, ngày tôi còn học ở trường có rất nhiều thày dạy của tôi mới đang học thạc sỹ, và đến bây giờ tình hình cũng chi cải thiện đôi chút. Giáo dục ĐH của VN đang vấp phải 1 vòng luẩn quẩn: thiếu giáo viên vì lương giáo viên thấp, lương thấp thì sinh viên xuất sắc ra trường ko muốn ở lại trường làm giáo viên, và thế là lại thiếu giao viên

Ho ten: nobita
Dia chi: 111

Tôi hiện là giảng viên tại một trường ĐH lớn ở TP.HCM. Đọc những con số thống kê, tôi thấy rất buồn nhưng nói đi thì cũng nên nói lại. Có bao nhiêu giảng viên có thể an tâm nghiên cứu khoa học khi thu nhập từ mác giảng viên không đủ sống giữa Sài Gòn. Các bạn có biết các giảng viên trẻ khi công tác tại trường còn thua lương công nhân đi làm ở xí nghiệp.

Ho ten: Trần An Trị
Dia chi: BMT

Lâu nay, khi nói đến tiềm lực khoa học công nghệ của một cơ quan nghiên cứu hay một trường đại học, ta quen minh chứng với những con số GS, PGS, TSKH, TS…khô khan, mà quên nói đến tiềm lực sáng tạo và đóng góp cho khoa học của họ thể hiện qua công trình nghiên cứu, chuyển giao công nghệ. Nhiều người có suy nghĩ quá giản đơn về chất lượng của trường đại học là số lượng SV nhiều, cơ sở vật chất hoành tráng, nằm ở thành phố lớn, số học sinh thi vào đại học năm sau cao hơn năm trước, điểm đầu vào đại học ngày một tăng lên. Ngay cả đội ngũ lãnh đạo nhiều trường đại học cũng yếu. Có nhiều người yếu về giảng dạy, nghiên cứu và quản lý, được cất nhắc theo kiểu so đũa chọn cột cờ hoặc do quan hệ. Để có trường đại học có đẳng cấp quốc tế, các trường đại học của Việt Nam cần nỗ lực rất lớn. Cơ chế quản lý phù hợp, lãnh đạo trường có tầm nhìn chiến lược và đội ngũ giảng viên có chuyên môn cao, tâm huyết với nghề. Công tác giảng dạy được chú trọng, nghiên cứu khoa học được quan tâm, đội ngũ giảng dạy và nghiên cứu được tôn trọng.

,
Ý kiến của bạn
Ý kiến bạn đọc
,
,
,
,
;