221
442
Kinh tế - Thị trường
kinhte
/kinhte/
552914
NĐ dự thảo ngân hàng nước ngoài và BTA chưa "khớp"
1
Article
null
NĐ dự thảo ngân hàng nước ngoài và BTA chưa 'khớp'
,

(VietNamNet) - Nghị định dự thảo về tổ chức tín dụng nước ngoài và Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ còn nhiều điểm chưa "khớp".

Soạn: AM 215332 gửi đến 996 để nhận ảnh này qua MMS

Chi nhánh ngân hàng Far East Bank (Mỹ) tại Việt Nam. Ảnh: M.Q

Đó là nhận định của một đại diện dự án Star-Vietnam (tổ chức hỗ trợ thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ do cơ quan chính phủ hai nước thành lập) trong một buổi hội thảo góp ý về nghị định về tổ chức, hoạt động của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Hội thảo do Ngân hàng Nhà nước tổ chức sáng nay (8/12) với sự tham gia của các tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động trên địa bàn.

Ngân hàng Mỹ bị... thiệt (?)

Một nghị định về tổ chức tín dụng nước ngoài đang được Ngân hàng Nhà nước soạn thảo để thay thế Nghị định 13 hiện hành. Nghị định dự thảo được soạn thảo theo như cam kết mở cửa trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng đối với nhà đầu tư nước ngoài mà Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA) đã ký kết và có hiệu lực từ tháng 10/2001. Nhìn chung nghị định dự thảo đã thể hiện sự thông thoáng, nhưng vẫn tồn tại một số điều không rõ hoặc mâu thuẫn với BTA.

Ông Fred Burke, cố vấn pháp luật của dự án Star-Vietnam, cho biết lộ trình BTA cho phép ngân hàng Mỹ hưởng chương trình đối xử quốc gia như các ngân hàng trong nước, hay nói cách khác, ngân hàng trong nước được thực hiện các sản phẩm hay dịch vụ gì thì ngân hàng Mỹ cũng được phép kinh doanh như thế. Tuy nhiên, nghị định dự thảo lại qui định, tùy theo từng trường hợp mà ngân hàng nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước cấp phép. "Điều này không chỉ thiếu minh bạch mà còn có thể tạo ra những ngân hàng lũng đoạn thị trường", ông phát biểu với các quan chức ngân hàng trong buổi hội thảo.

Ông Burke còn đưa ra những vấn đề liên quan đến vốn pháp định, mà theo ông là cũng không rõ ràng giữa dự thảo và Hiệp định Thương mại Việt Mỹ (BTA). Theo nghị định dự thảo, vốn pháp định mà bên nước ngoài được phép nắm giữ trong liên doanh không qui định tỷ lệ, thay vào đó tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa đối tác. Qui định này được cho là "thoáng" vì không hạn chế quyền góp vốn của các bên trong liên doanh. Tuy nhiên, ông Burke cho rằng, đó lại là "vấn đề" đối với các đối tác Mỹ, vì trong 9 năm đầu thực hiện BTA, các đối tác Mỹ chỉ được phép nắm giữ tối đa 49%. Như vậy vô hình chung, đối tác Mỹ bị giới hạn về quyền góp vốn trong khi các đối tác nước ngoài khác thì không.

Cũng liên quan đến đối tác liên doanh, trong BTA không có qui định đối tác trong nước tham gia trong liên doanh phải là một ngân hàng, thay vào đó có thể là một tổ chức kinh doanh phi ngân hàng. Trong khi đó, nghị định dự thảo thì ngược lại, buộc đối tác trong nước tham gia liên doanh với ngân hàng nước ngoài cũng phải là một ngân hàng.

Ngân hàng nước ngoài bị thiệt hơn các nhà đầu tư nước ngoài khác

Lộ trình BTA về lĩnh vực ngân hàng

  • Thực hiện ngay: Được thành lập các chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ, áp dụng đối xử quốc gia (NT) với cổ phần Hoa Kỳ trong các ngân hàng thương mại cổ phần.

  • 2001-2010: Được thành lập các ngân hàng liên doanh với số vốn góp của Hoa Kỳ chiếm từ 30%-49%.

  • 2010: Được thành lập các ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ (9 năm sau khi BTA có hiệu lực).

  • Ngày 10/12/2004: Tiếp cận các phương thức giao dịch chiết khấu, hoán đổi và có kỳ hạn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: đối xử quốc gia đối với ngân hàng Hoa Kỳ đầy đủ.

  • Ngày 10/12/2010: Được phép thành lập các ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ.

Nguồn: Star-Vietnam

Luật các Tổ chức Tín dụng sửa đổi đã được ban hành và có hiệu lực từ đầu tháng 10 năm nay. Luật là cơ sở pháp lý cho các tổ chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Hướng dẫn việc thực thi Luật này là các nghị định của Chính phủ cho từng đối tượng, và đó là điều cần thiết để không chỉ tạo sự minh bạch và đúng cam kết của BTA mà còn phải công bằng.

Ông Burke cũng đặt ra nhiều câu hỏi đối với những nhà soạn thảo về sự bình đẳng giữa ngân hàng nước ngoài và ngân hàng trong nước, khi mà nghị định dự thảo đề cập đến những qui định đối với ngân hàng  nước ngoài trong khi không nói đến ngân hàng trong nước. Ví dụ như tỷ lệ nợ khó đòi mà các ngân hàng nước ngoài phải đảm bảo dưới 5%, hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải có tài sản trị giá 20 tỷ USD và 10 tỷ USD đối với liên doanh và ngân hàng con 100% vốn đầu tư nước ngoài... Vậy, ngân hàng trong nước có qui định như thế không? Vì theo ông, khi đã áp dụng qui chế đối xử quốc gia thì các ngân hàng đều phải như nhau về quyền và nghĩa vụ.

Trong khi đó, một đại diện của Deustch Bank chi nhánh tại TP.HCM cho rằng, việc chuyển lợi nhuận hợp pháp ra nước ngoài đã được qui định rõ ràng và đó là một trong những quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài làm ăn ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo luật đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư đương nhiên được chuyển lợi nhuận về nước mà không cần phải xin phép cơ quan chức năng. "Trong khi đó các tổ chức tín dụng lại phải xin phép Ngân hàng Nhà nước. Đây là điều bất bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài," vị đại diện này phát biểu. Ông còn nói thêm rằng, các ngân hàng thường nộp rất nhiều báo cáo liên quan đến hoạt động của họ cho Ngân hàng Nhà nước. Những báo cáo này thể hiện rất rõ việc thu chi, lời lỗ..., và thuận tiện cho Ngân hàng Nhà nước kiểm tra bất cứ lúc nào. Vì vậy, qui định xin phép Ngân hàng Nhà nước khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài cần phải được đưa ra khỏi văn bản pháp luật.

Đại diện Deustch Bank còn đề nghị Ban soạn thảo cần xác định lại việc phong tỏa vốn và tài sản của ngân hàng nước ngoài để bảo vệ quyền lợi của người gởi tiền. Theo đó, một phần hoặc toàn bộ tài sản của ngân hàng nước ngoài nên gởi ở Ngân hàng Nhà nước, thay vì ở một tổ chức tín dụng nào đó được Ngân hàng Nhà nước chỉ định, có như vậy mới tránh thiệt hại cho Ngân hàng nước ngoài khi rủi ro xảy ra ở tổ chức tín dụng được chỉ định kia. 

Nghị định dự thảo dự kiến sẽ hoàn tất trong quí I năm tới và sẽ được Chính phủ chấp thuận trước khi được ban hành.

  • Minh Quang

 

 

 

,
Ý kiến của bạn
Ý kiến bạn đọc
,
,
,
,