|
| Trụ sở của CitiBank tại Việt Nam. |
Ông Trần Trọng Độ - Vụ trưởng Vụ Pháp chế của NH Nhà nước Việt Nam (SBV) - đã nhận định như vậy tại Hội thảo về các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định thương mại Việt Mỹ (BTA) và tiến trình gia nhập WTO diễn ra sáng qua (10/7), tại Hà Nội.
Theo Hiệp định đã ký, Việt Nam cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính - NH theo lộ trình nới lỏng dần và tiến tới xoá bỏ các hạn chế đối với hoạt động của các NH Mỹ tại Việt Nam. Lộ trình này đồng nghĩa với việc xoá bỏ dần nhiều lợi thế của các định chế trong nước. Cụ thể, ngay sau khi BTA có hiệu lực (10/12/2001), các chi nhánh NH Hoa Kỳ được phép thành lập tại Việt Nam. Giai đoạn từ 2001 đến 2010 họ sẽ được thành lập các NH liên doanh với vốn Hoa Kỳ từ 30-49%, tới năm 2010 được thành lập NH 100% vốn Hoa Kỳ. Các NH Mỹ sau khi thành lập được nhận tiền ký gửi bằng nội tệ và sau 9 năm (2010), các NH Mỹ được phép nhận tiền ký gửi bằng nội tệ như các NH Việt Nam.
Trong 8 năm, các NH Mỹ được phép phát hành thẻ tín dụng. Sau 5 năm được phép lập công ty bảo hiểm nhân thọ và các lĩnh vực không bắt buộc 100% vốn từ Mỹ. Đối với các lĩnh vực bảo hiểm bắt buộc (bảo hiểm xe có động cơ, xây dựng..) thì sau 3 năm được lập liên doanh, không hạn chế góp vốn của Mỹ và sau 6 năm được lập công ty 100% vốn từ Mỹ.
Như vậy là sau 9 năm, các NH Mỹ sẽ có một sân chơi bình đẳng với các NH nội địa. Nhưng theo ông Fred Burke - chuyên gia của Dự án Star Việt Nam, hiện nhiều NH và các tổ chức tín dụng Mỹ đang gấp rút tìm hiểu về các luật lệ để thâm nhập thị trường tài chính Việt Nam.
Thách thức chuyển đổi tư duy
''Hoạt động đa dạng hơn của các tổ chức tín dụng Mỹ theo Hiệp định đang đặt ra những yêu cầu mới đối với SBV trong hoạt động quản lý Nhà nước về hoạt động NH'' - chính Phó thống đốc của SBV Trần Minh Tuấn cũng thừa nhận.
| Trong năm 2003, SBV sẽ xây dựng 13 văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các hoạt động trong ngành phù hợp với BTA. Đồng thời, cơ quan này đang xây dựng một Chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực NH, xác định rõ lộ trình hội nhập, các mức cam kết đối với từng loại tổ chức kinh tế. |
Thách thức đầu tiên đối với hệ thống NH Việt Nam khi thực thi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ là phải loại bỏ dần các hạn chế đối với các NH Hoa Kỳ. Điều này có nghĩa là công nghệ hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến cũng như nguồn tài chính dồi dào của các NH Mỹ sẽ là những ưu thế cơ bản tạo ra những sức ép cạnh tranh, buộc các NH Việt Nam phải đầu tư thêm vào kỹ thuật, cải tiến phương thức quản trị và hiện đại hoá hệ thống thanh toán để nâng cao năng lực. Trình độ công nghệ, khả năng tài chính, trình độ quản lý của các NH Việt Nam còn thấp, các dịch vụ ngân hàng chưa phong phú, nặng về nghiệp vụ truyền thống, chưa tiện lợi, chưa hấp dẫn nên thách thức về cạnh tranh với NH rất đáng kể. Đặc biệt là đối với các NH có những nội dung và phạm vi hoạt động trùng với lĩnh vực hoạt động có ưu thế của các NH Mỹ (như thanh toán quốc tế, đầu tư dự án, tài trợ thương mại...) và các khách hàng trọng tâm của NH Mỹ (các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp nhà nước lớn, các doanh nghiệp xuất khẩu lớn...).
Khả năng lớn hơn của các NH Mỹ trong việc tiếp cận với các hoạt động của NH TƯ trên các thị trường liên NH, thị trường ngoại hối sẽ tạo những sức ép nhất định đối với hoạt động quản lý của SBV, nhất là khi các thị trường này hoạt động mạnh mẽ hơn và khi các NH Mỹ được tiếp cận với nghiệp vụ tái chiết khấu tại SBV.
Một loạt các loại hình nghiệp vụ NH mới chưa được thực hiện tại Việt Nam hoặc chưa có quy định điều chỉnh nhưng đã được cam kết tại Hiệp định cho phép các tổ chức tín dụng Mỹ được thực hiện sẽ buộc SBV phải khẩn trương nghiên cứu và sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các nghiệp vụ mới. Đây là những lĩnh vực mà các tổ chức tín dụng Mỹ sẽ có ưu thế hơn hẳn các NH Việt Nam.
Trong trường hợp các NH Mỹ được phép thực hiện cả những hoạt động kinh doanh chứng khoán như quản lý các quỹ đầu tư, hoặc tham gia vào việc thanh toán bù trừ các tài sản tài chính, họ cũng sẽ có phạm vi hoạt động rộng hơn hẳn các NH Việt Nam hiện nay và sẽ có những ưu thế rõ rệt trong việc đa dạng hoá hoạt động của mình. Đồng thời, việc quản lý nhà nước đối với hoạt động của các NH Mỹ sẽ phức tạp hơn hiện nay và đòi hỏi phải có sự phối hợp quản lý của nhiều cơ quan.
Ngoài ra, các NH Việt Nam còn gặp phải một số khó khăn khác như hệ thống pháp luật trong nước còn chưa đầy đủ, chưa nhất quán và thích hợp với các chuẩn mực quốc tế, một số khái niệm, thuật ngữ cũng như dịch vụ được quy định trong Hiệp định còn quá mới mẻ và xa lạ.
Các NH hãy lo ''tự bảo vệ''
Đại diện của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, NH HSBC và NH Á Châu đều cho rằng, điều tối quan trọng bên cạnh những nỗ lực của SBV thì chính các NH phải tự nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
NH Á Châu đầu năm 2003 đã nâng vốn điều lệ của mình lên 424 tỷ đồng và dự kiến tháng 7 này con số đó sẽ lên tới 500 tỷ đồng. Các năm tiếp theo, họ cũng sẽ tiếp tục nâng vốn để đảm bảo các chỉ tiêu về an toàn vốn. Năng lực quản lý cũng dần dần được nâng cao thông qua việc xây dựng các công cụ quản lý, tổ chức các khóa đào tạo về quản trị NH. Toàn bộ 22 chi nhánh của họ đã kịp nối mạng, giao dịch tức thời trên cơ sở dữ liệu tập trung. Đơn vị này đang mở rộng các chủng loại dịch vụ, xây dựng các quy trình nghiệp vụ cơ bản, các công cụ phục vụ khách như hệ thống xếp hàng tự động, phonebanking, dịch vụ thông tin qua Internet...
Đại diện các NH Việt Nam cũng cho rằng, sức mạnh và ưu thế hơn hẳn của các NH Việt Nam so với các NH Mỹ là có được mạng lưới chi nhánh rộng khắp, mối quan hệ truyền thống với khách hàng, có sự hiểu biết cụ thể các yêu cầu của khách hàng, khả năng khách hàng và những vấn đề văn hoá mà NH Mỹ chưa thể có.
Bên cạnh đó, do điểm yếu của các NH nước ngoài là không có mạng lưới rộng, hiểu biết khách hàng hạn chế, sự hợp tác giữa các NH Việt Nam và các NH Hoa kỳ trong nhiều trường hợp là yêu cầu của chính các NH Mỹ. Điều này tạo ra cơ hội cho các NH Việt Nam tiếp cận được dần với cách thức quản lý, kinh doanh của các NH quốc tế hoạt động tại Việt Nam.
Việt Nam cũng chưa có quy định về một số dịch vụ như hợp đồng theo giá cố định và giao sau (hedging). Ông Fred Burke, chuyên gia của Dự án Star cho biết các NH Mỹ đang băn khoăn rằng, nếu dịch vụ này được mở ra cho các NH Mỹ thì họ có được cung cấp dịch vụ này trước khi các quy định liên quan được ban hành không?
- Hồng Phúc