- Tất cả bạn tù của anh trong trại giam đều nói anh là người tù hạnh phúc vì đằng đẵng mười mấy năm vợ anh ở nhà nuôi một nách ba con thơ còn nhỏ dại nhưng đều đặn hàng tháng chị đều vượt quãng đường gần 300km từ Sơn La vào Ninh Bình thăm anh.
“Người tù hạnh phúc nhất trại giam Ninh Khánh” Triệu Nhất Tráng năm nay vừa bước qua tuổi 40 nhưng gương mặt của anh đã hằn sâu những nét mệt mỏi, buồn bã.
Anh kể, gia đình ở Mộc Châu – Sơn La, trước khi bị bắt, hai vợ chồng Triệu Nhất Tráng đều là công nhân của Nhà máy chè Mộc Châu. Cả anh và chị đều là người miền xuôi lên đây lập nghiệp. Họ quen và yêu nhau từ những năm bao cấp nghèo khó, khi mà việc lo bữa ăn hàng ngày vẫn là nỗi ám ảnh của không chỉ riêng ai.
Anh kể, ngày đó cả hai đều nghèo. Họ sống trong khu tập thể của nông trường chè, khu nhà trát bằng đất, có mái lợp bằng gianh mà mỗi mùa mưa bão đều oằn lên, nghiêng ngả đôi ba lần. Anh yêu chị bởi sự dịu dàng, chu đáo, biết chăm lo cho người khác. Là đàn ông, nên có những khi quần áo rách anh cũng không hay, khuy áo bung anh cũng chẳng biết. Nếu có biết cũng xuê xoa cho qua chuyện. Nhưng chị thì không thế, chẳng đợi anh đồng ý, chị lấy áo mang về phòng, khi thì để đơm lại cái cúc áo, khi thì vá miếng rách ở tay.
Anh kể: “Chúng tôi đều là công nhân nghèo, ít học, nên chẳng biết lãng mạn như bao người. Hồi yêu nhau, những lúc rủ cô ấy đi chơi, tôi thường chỉ có củ sắn, củ khoai làm quà”. Kỉ niệm đáng nhớ nhất ngày yêu nhau là lần vợ tôi suýt chết hụt dưới tay thần sét. Ngày hôm đó, tôi hái ở bên đồi bên này, bỗng thấy tia sét đánh ở phía khu vực đồi nơi cô ấy đang làm việc. Quá sợ hãi khi hình dung đến cảnh tượng đang xảy ra, tôi chạy như điên đến chỗ cô ấy làm, vừa chạy vừa cầu khấn ông trời. Đến nơi, thấy cô ấy đứng chết lặng, mặt tái xanh, chỉ cách chỗ sét đánh chưa đầy chục mét, chính tôi là người bật khóc ngon lành khi đó.
Sau chuyện đó chúng tôi cưới nhau, hai vợ chồng làm chung tại một đồi chè. Khi vợ tôi mang thai đứa con đầu lòng thì tôi chẳng bao giờ cho cô ấy rời tôi nửa bước. Tôi bảo với vợ, mình nhất định phải làm việc cạnh nhau, để nếu có chết thì chúng ta cùng chết một ngày, và lại tiếp tục là vợ, là chồng dưới suối vàng”.
Đến lúc chuẩn bị sinh đứa con thứ 3 thì cả gia đình rơi vào hoàn cảnh túng quẫn. Là người đàn ông trong gia đình, anh chẳng cam lòng chấp nhận điều đó. Nên khi có người đề nghị anh đi “ôm hàng” thuê với mức tiền công 1 triệu đồng/lần đi thì anh đồng ý, hi vọng tháo gỡ khó khăn cho cả gia đình.
Ngay lần đầu tiên đó anh bị bắt. Anh kể: “Vợ tôi, đến tận lúc công an vào khám nhà vẫn ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra. Biết tôi bị bắt, cô ấy còn cười bảo với mấy đồng chí công an là các anh nhầm rồi, chồng tôi lương thiện, đến một đồng của người khác cũng chẳng bao giờ tơ hào, chứ đừng nói là phạm một tội tày trời như thế. Nên khi biết tôi không hề bị bắt oan thì cô ấy suy sụp lắm. Tôi ở trong trại tạm giam, cô ấy lên thăm luôn, lần nào lên cũng vừa khóc vừa trách móc, hỏi tôi tại sao lại làm thế. Tôi bị tòa kết án 15 năm, vợ tôi mang đứa con mới sinh đến tòa, không khóc lóc, không kêu than, chỉ nói với tôi duy nhất một câu: Anh gắng cải tạo tốt để về với mẹ con em, em sẽ chờ. Lúc đó tôi không tin, nghĩ là chỉ vài ba năm nữa là cô ấy sẽ lấy chồng mới. Ấy thế mà cô ấy chờ tôi thật, đến nay đã 10 năm 6 tháng. Và chắc chắn là sẽ chờ đến lúc tôi mãn hạn tù”.
10 năm 6 tháng anh cải tạo ở trại giam Ninh Khánh, là 126 lần chị lặn lội từ Mộc Châu, vượt quãng đường núi hơn 300km vào Ninh Bình thăm anh. Mỗi lần vào chị cũng chỉ mang được cho chồng vài bịch sữa tươi, dăm cái bánh mì và 100 nghìn tiền lưu ký. Lương công nhân hái chè có đáng bao. Nhưng chị vẫn cáng đáng cả gia đình với 3 đứa con nhỏ dại và lo lắng thăm nuôi anh trong tù. Những lần đi thăm anh từ tháng này qua năm khác khiến chị khô héo, gày mòn, già sọm đi so với tuổi. Nhưng bước sang bên kia con dốc cuộc đời, anh chợt nhận ra vợ mình đẹp hơn bất cứ người phụ nữ nào trên thế giới này.
Những cán bộ quản giáo ở nhà thăm gặp phạm nhân giờ đã quá quen với việc đều đặn hàng tháng chị vào thăm chồng. Họ đều bảo những người vợ trọn vẹn với chồng như chị, trong số những tù nhân ở đây, chỉ có chồng chị là may mắn có được.
Chị không giấu giếm với con việc bố đi tù, chị chỉ bảo: “Bố không phải người xấu, chỉ vì muốn kiếm tiền nuôi mẹ và con nên mới ra nông nỗi này”. Ôm đứa con trai bé bỏng trong lòng, nghe được câu nói của vợ, mà một người đàn ông cứng rắn như anh cũng ứa nước mắt. Đời anh chỉ có hai lần khóc. Một lần vì anh nhìn thấy chị trên đồi chè, lúc mới thoát lưỡi hái tử thần. Và lần này, khi anh biết mình may mắn nhường nào vì có người vợ bao dung, vị tha và giàu đức hi sinh như thế.
(Theo Đang yêu)