- Vào những giây phút giao thừa chào năm mới 2009, các lực lượng tham gia phân giới cắm mốc Việt - Trung có thể tự hào báo cáo với Tổ quốc Việt Nam yêu quý đã hoàn thành nhiệm vụ được lãnh đạo Đảng và Chính phủ hai nước giao phó: kết thúc phân giới, cắm mốc biên giới đất liền Việt - Trung trong năm 2008.
Đây là quyết tâm đã được lãnh đạo Đảng và Chính phủ hai nước nhiều lần khẳng định và cũng là thành quả 17 năm nỗ lực giải quyết biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Sự kiện lịch sử trọng đại
Việc hoàn thành phân giới cắm mốc (PGCM) trong năm 2008 là sự kiện lịch sử trọng đại của quốc gia và dân tộc, có ý nghĩa chiến lược trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Lần đầu tiên trong lịch sử hai nước độc lập, có chủ quyền có được một đường biên giới rõ ràng, được đánh dấu bằng các cột mốc hiện đại, hoành tráng, thuận tiện cho quản lý.
Thứ trưởng Ngoại giao, Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ Việt Nam Vũ Dũng và người đồng nhiệm Trung Quốc Vũ Đại Vỹ ký biên bản lúc 2h5’ ngày 1/1/2009. Ảnh: NHT
Với kết quả này chúng ta đã cơ bản giải quyết được hai vấn đề lớn về biên giới lãnh thổ trong quan hệ hai nước Việt Nam - Trung Quốc (đất liền và Vịnh Bắc Bộ), tạo điều kiện tập trung giải quyết các vấn đề trên Biển Đông, tăng cường sự tin cậy giữa hai bên, thúc đẩy quan hệ hai nước, mở ra cơ hội mới cho công cuộc phát triển của mỗi nước, đặc biệt là tạo điều kiện cho các địa phương biên giới hai bên mở rộng hợp tác, phát triển kinh tế, tăng cường giao lưu hữu nghị; tạo tiền đề vững chắc để xây dựng biên giới Việt - Trung thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài.
Biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc dài khoảng 1.406km tiếp giáp giữa 7 tỉnh của Việt Nam từ Tây sang Đông là Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang - Quảng Tây của Trung Quốc.
Đường biên giới này đã được hình thành qua quá trình lịch sử hàng nghìn năm và tồn tại một cách tương đối ổn định kể từ khi Việt Nam giành được độc lập sau nghìn năm Bắc thuộc. Tạp chí Geographer số 38 của Vụ Tình báo và Nghiên cứu Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 29/10/1964 viết: "Sau hơn 10 thế kỷ bị đô hộ, năm 939 Bắc Kỳ phá vỡ ách đô hộ của Trung Quốc và thành lập Vương quốc Đại Cồ Việt... nhà nước mới này đã bảo vệ được nền độc lập của mình... một đường biên giới gần giống như ngày nay dường như đã tồn tại giữa hai quốc gia cách đây 10 thế kỷ".
Tuy nhiên, biên giới Việt - Trung mang tính khái niệm biên giới vùng, chưa phải là đường biên giới được PGCM, đánh dấu bằng một hệ thống mốc giới chính xác. Công ước 26/6/1887 và Công ước bổ sung 20/6/1895 giữa Chính phủ Pháp (nhân danh Việt Nam) và Triều đình Mãn Thanh Trung Quốc là các văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên xác định biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cơ sở của hai công ước này được dựa trên đường biên giới lịch sử vốn có đã tồn tại từ lâu đời giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc trước khi Pháp xâm lược Việt Nam, thể hiện thành quả lịch sử của cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam.
Đường biên giới đó đã được cụ thể hoá trên thực địa bằng một hệ thống mốc quốc giới (341 mốc) từ Móng Cái đến biên giới Lào - Trung. Tuy nhiên các công ước này cũng tồn tại nhiều hạn chế như lời văn công ước mô tả đơn giản, không rõ ràng, không phù hợp với thực địa, bản đồ tỷ lệ nhỏ, nhiều địa danh, khu vực không thể hiện như bãi Tục Lãm, Tài Xẹc, Dậu Gót, nhiều khu vực chưa được PGCM hoặc cắm mốc quá thưa. Ngoài ra, qua hơn trăm năm, hệ thống mốc cũng bị hư hại, xê dịch, phá hủy do chiến tranh và thời gian.
Ngay sau khi giành được độc lập, ngày 2/11/1957, Ban Bí thư TƯ Đảng Lao động Việt Nam đã gửi thư cho Ban Chấp hành TƯ Đảng Cộng sản Trung Quốc đề nghị hai bên tôn trọng đường biên giới lịch sử do hai công ước Pháp - Thanh 1887 và 1895 để lại và giải quyết mọi tranh chấp có thể thông qua thương lượng hòa bình. Bức thư nhấn mạnh: "Vấn đề quốc giới là một vấn đề quan trọng cần giải quyết theo những nguyên tắc pháp lý đang có hoặc được xác định lại do Chính phủ hai nước quyết định".
Tháng 4/1958, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trả lời đồng ý với đề nghị của phía Việt Nam, tôn trọng hiện trạng đường biên giới lịch sử được Công ước 1887 và 1895 xác lập. Đây là thắng lợi quan trọng của quan hệ Trung - Việt trong bối cảnh nước Trung Quốc mới không chấp nhận các hiệp ước biên giới được coi là bất bình đẳng khi Trung Quốc phong kiến phải ký với các nước thực dân. Tuy nhiên do chiến tranh chống Mỹ, hai nước đã không có điều kiện hoàn thiện chất lượng đường biên giới.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại đồn biên phòng Tục Lãm, Quảng Ninh. Ảnh: NHT |
Đàm phán về biên giới Việt - Trung lần thứ nhất chỉ được bắt đầu tại Bắc Kinh ngày 15/8/1974. Cuộc đàm phán lần thứ hai diễn ra từ 7/10/1977 đến tháng 6/1978. Đàm phán lần thứ ba được nối lại tại Hà Nội từ ngày 18/4/1979. Phía Việt Nam đã đưa ra đề nghị 3 điểm, trong đó điểm 3 nêu rõ: "Việc giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ giữa hai nước tuân theo nguyên tắc tôn trọng nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại và đã được hoạch định bởi các Công ước 1887 và 1895 do Chính phủ Pháp và nhà Thanh ký, và đã được phía Việt Nam và phía Trung Quốc đồng ý chấp nhận".
Sau khi bình thường hoá quan hệ, đàm phán về biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam - Trung Quốc lần thứ tư bắt đầu từ tháng 10/1992. Ngày 19/10/1993, hai đoàn đàm phán Chính phủ đã ký Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam – Trung Quốc, phần nói về biên giới trên bộ quy định: "Hai bên đồng ý căn cứ vào Công ước hoạch định biên giới ký giữa Trung Quốc và Pháp ngày 26 tháng 6 năm 1887 và Công ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới ngày 20 tháng 6 năm 1895 cùng các văn kiện và bản đồ hoạch định và cắm mốc biên giới kèm theo đã được Công ước và Công ước bổ sung nói trên xác nhận hoặc quy định, cũng như các mốc quốc giới cắm theo quy định, đối chiếu xác định lại toàn bộ đường biên giới trên bộ giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc".
Đàm phán lần thứ tư là cuộc đàm phán dài nhất (7 năm) trên nhiều diễn đàn (cấp Chính phủ - 6 vòng, cấp chuyên viên - 16 vòng, không kể các vòng cấp kỹ thuật ...). Kết quả hai bên đã ký Hiệp ước hoạch định biên giới đất liền ngày 30/12/1999.
Trong quá trình đàm phán, hai bên đã so sánh các Công ước Pháp - Thanh, văn bản pháp lý và bản đồ kèm theo. Gần 900km trên tổng chiều dài biên giới khoảng 1.350km (đo trên bộ bản đồ thể hiện đường biên giới chủ trương của hai bên) nhận thức của hai bên trùng nhau, tức là không có tranh chấp. Khoảng 450km còn lại, tức là 33% tổng chiều dài đường biên giới, không có văn bản, hoặc văn bản và bản đồ chưa rõ ràng nên nhận thức hai bên có khác nhau, được chia thành 289 khu vực (với tổng diện tích khoảng 231km2), trong đó: 74 khu vực khác nhau vì lý do kỹ thuật vẽ chồng lấn lên nhau, được gọi là khu vực A; 51 khu vực vì lý do kỹ thuật hai bên đều chưa vẽ tới, gọi là khu vực B. Các khu vực loại A và B có diện tích không lớn, chỉ khoảng 5 km2; 164 khu vực có tranh chấp, hoặc có nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới, gọi là khu vực C (rộng khoảng 227km2). Các cuộc đàm phán chủ yếu tập trung vào việc xử lý 164 khu vực C này.
Càng về cuối, đàm phán càng khó khăn, căng thẳng
Hiệp ước 1999 đã ghi nhận kết quả, quy thuộc khoảng 114,9 km2 cho Việt Nam (gồm 112,3km2 thuộc khu vực C; 2,6km2 thuộc khu vực A và B) và khoảng 117,2 km2 thuộc Trung Quốc (trong đó có 114,8 km2 thuộc khu vực C; 2,4 km2 thuộc khu vực A và B). Đây là một kết quả công bằng, hai bên có thể chấp nhận và là cơ sở pháp lý quan trọng để hai bên tiến hành PGCM tức chuyển đường biên giới từ lời văn Hiệp ước 1999 và bản đồ ra thực địa, một cách chính xác, rõ ràng và đánh dấu bằng một hệ thống mốc giới chính quy hiện đại.
Đây là một công trình trọng điểm quốc gia, có khối lượng công việc lớn, nội dung liên quan đến nhiều chuyên ngành kỹ thuật, pháp lý, quản lý, bảo vệ... của các bộ, ngành Trung ương 7 tỉnh biên giới Việt - Trung và 2 tỉnh biên giới Trung - Việt. Công việc được thực hiện trong thời gian dài và có tính song phương tại thực địa trong điều kiện khó khăn về địa hình (nhiều núi cao trên 1000 - 2000m), cơ sở hạ tầng, giao thông kém phát triển và xa các khu dân cư, nhiều nơi không có đường đi lại, bom mìn, vật nổ nhiều, khí hậu phức tạp, một số khu vực dân cư đan xen nhau và dân cư biên giới có nhiều quan hệ huyết thống, dòng họ, qua lại với nhau từ lâu đời.
Tháng 12/2001, hai bên cắm cột mốc đầu tiên tại cửa khẩu Móng Cái - Đông Hưng. Toàn tuyến biên giới được chia thành 12 đoạn, giao cho 12 nhóm PGCM phụ trách. Từ tháng 10/2002, hai bên đồng loạt triển khai PGCM trên toàn tuyến biên giới Việt - Trung. Với phương châm “dễ trước, khó sau” đến năm 2007, hai bên đã xác định được gần 70% vị trí mốc giới. Các khu vực tồn đọng đều là các khu vực khó, nhạy cảm, có lịch sử tranh chấp lâu đời. Hai bên gặp nhiều khó khăn trong giải quyết các mâu thuẫn giữa lời văn với bản đồ đính kèm Hiệp ước, giữa bản đồ với thực địa và sự không rõ ràng của một số từ ngữ trong Hiệp ước như “phía Nam”, “mé”, “xuống khe ”…
Còn lại 109 khu vực, phần lớn là các khu vực loại C với khoảng 600 mốc chưa xác định vị trí, chưa cắm. Từ đầu năm 2008, UBLH và Đoàn đàm phán Chính phủ đã trực tiếp trao đổi giải quyết, giao kết quả cho các nhóm PGCM thực hiện. Hai bên đã tiến hành 10 vòng đàm phán UBLH, 5 vòng đàm phán và gặp đặc biệt của 2 trưởng đoàn đàm phán Chính phủ, vòng ngắn nhất kéo dài 9 ngày, vòng dài nhất 23 ngày, phiên họp dài nhất 31 giờ liền. Càng về cuối, đàm phán càng khó khăn, căng thẳng. Các lực lượng PGCM của ta đã có những nỗ lực hết sức to lớn cả trên bàn đàm phán và trên thực địa. Lãnh đạo Chính phủ đã sâu sát ra tận thực địa thị sát, chỉ đạo. Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã ra thác Bản Giốc tháng 10/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ra tận cửa sông Bắc Luân tháng 12/2008.
Hai bên đã cùng thoả thuận và áp dụng sáng tạo nguyên tắc “cả gói” để giải quyết các khu vực tồn đọng với mục đích tìm giải pháp tổng thể, công bằng, hợp lý, hợp tình, hai bên có thể chấp nhận được. Nội dung chính của nguyên tắc này là giải quyết trên cơ sở cân bằng lợi ích và diện tích, biên giới đi qua tất cả các mốc cũ, dấu tích lịch sử, hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng đến đời sống của cư dân biên giới. Hai bên đã lần lượt chia các khu vực tồn đọng ra thành nhiều gói, mỗi gói giải quyết theo một số nguyên tắc nhất định như gói 11+1 mốc cũ, gói các khu vực trong C, ngoài C, gói “ các cửa khẩu” Trà Lĩnh, Pò Peo, Tân Thanh, Hữu Nghị (đường bộ và đường sắt), Chi Ma, “gói sông suối”, gói các khu vực đặc thù” và “gói thác Bản Giốc và cửa sông Bắc Luân”.
Hai bên đã trao đổi một cách thẳng thắn để đi đến kết quả công bằng, tôn trọng lời văn và tinh thần của Hiệp ước 1999, nhất là tại các khu vực nhạy cảm đối với dư luận trong nước và quốc tế. Tại cửa khẩu Hữu Nghị, đường biên giới đi qua Km0, mốc 19 cũ của Pháp và điểm cách điểm nối ray 148m về phía Bắc. Tại khu vực thác Bản Giốc, theo quy định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế, đường biên giới đi theo trung tuyến dòng chảy phía Nam cồn Pò Thoong, hai bên đã điều chỉnh đường biên giới đi qua cồn Pò Thoong, qua dấu tích trạm thủy văn xây dựng những năm 1960, quy thuộc 1/4 cồn, ½ thác chính và toàn bộ thác cao cho Việt Nam.
Tại cửa sông Bắc Luân, biên giới quy thuộc ¾ bãi Tục Lãm và 1/3 bãi Dậu Gót cho Việt Nam, ¼ Tục Lãm và 2/3 bãi Dậu Gót cho Trung Quốc, và thiết lập khu giao thông thuỷ tự do cho nhân dân địa phương sử dụng luồng hai bên bãi Tục Lãm và Dậu Gót. Tại khu vực Hoành Mô, đường biên giới đi giữa ngầm như từ trước đến nay chứ không theo trung tuyến dòng chảy qua cống mới do Trung Quốc xây dựng những năm 1960. Khu vực mồ mả ở mốc 53 - 54 cũ (Cao Bằng) được giữ lại cho người dân Việt Nam mặc dù hai bên có nhận thức khác nhau về quy định của Hiệp ước 1999 về biên giới khu vực này đi theo chân núi. Khu vực rừng hồi người dân Trung Quốc trồng gần biên giới Quảng Ninh được bảo lưu cho phía Trung Quốc.
Theo Hiệp ước 1999, đường biên giới cắt ngang qua bản Ma Lỳ Sán (gồm 05 hộ, 35 khẩu thuộc tỉnh Hà Giang) và khu 13 nóc nhà của người dân Trung Quốc gần Lạng Sơn, hai bên hoán đổi cho nhau trên cơ sở cân bằng diện tích, không xáo trộn đời sống dân cư. Các chốt quân sự của Trung Quốc trên biên giới đã được dỡ bỏ toàn bộ v.v… Nhiều khu vực tranh chấp hàng thế kỷ như Chi Ma, Trà Lĩnh, Sóc Giang… đã được giải quyết thoả đáng, đáp ứng nguyện vọng và mong mỏi của nhân dân hai nước.
Kết quả đàm phán đã theo đúng các nguyên tắc chỉ đạo của lãnh đạo cấp cao: Căn cứ theo Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa ký năm 1999, xuất phát từ lợi ích cơ bản của nhân dân hai nước và việc phát triển quan hệ truyền thống hữu nghị Việt - Trung, hiệp thương hữu nghị, thẳng thắn, chiếu cố thích đáng đến các mối quan tâm của nhau, cố gắng hết sức giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống sản xuất của người dân vùng biên giới hai nước, tìm giải pháp hai bên đều chấp nhận được, hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc trong năm 2008 nhưng không nôn nóng, vội vã.
Thành quả có được là nhờ sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của lãnh đạo cấp cao hai nước và những nỗ lực không mệt mỏi của hai đoàn đàm phán cấp Chính phủ cũng như các chuyên gia, đại diện của các ngành hữu quan và các tỉnh có chung biên giới. Đây cũng là thành quả của tinh thần giữ vững nền độc lập tự chủ của đất nước, nắm vững và vận dụng linh hoạt luật pháp quốc tế, tham khảo ý kiến và tạo sự đồng thuận của mọi con dân đất Việt trong và ngoài nước, tiếp thu kinh nghiệm giải quyết hoà bình các tranh chấp của các nước khác. Kết quả này là sự thể hiện sinh động của mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc theo phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt, cũng là sự đóng góp tích cực đối với hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực.
-
TS Nguyễn Hồng Thao (thành viên đoàn đàm phán)