Tác giả bài báo là James Kraska, cựu chuyên gia tư vấn về chính sách và chiến lược của Hội đồng Tham mưu trưởng quân đội Mỹ, làm việc tại Trường Chiến tranh hải quân Mỹ và Học viện Nghiên cứu Chính sách đối ngoại. Đây là quan điểm riêng của tác giả, không đại diện cho chính sách hay quan điểm chính thức của một nước nào. Để có cách nhìn nhiều chiều về vấn đề này, chúng tôi xin giới thiệu bài báo:
Hải quân Trung Quốc đang gia tăng sự hiện diện lớn mạnh của họ xung quanh Đông Á. Một chỉ huy hải quân Mỹ từng đưa ra câu hỏi liệu Mỹ có thể làm được những gì trước thực tế này.
Tàu chiến và trực thăng của Hải quân Trung Quốc (Ảnh Getty Images)
Vào đêm 26/3, Cheonan, một tàu khu trục nhỏ của Hải quân Hàn Quốc thực hiện nhiệm vụ tuần tra Hoàng Hải, đã bị vỡ làm hai mảnh trong một vụ nổ bí ẩn và chìm xuống đáy biển. Chiếc tàu chỉ vừa mới rời đảo Baengnyeong, gần Đường giới hạn phía Bắc - là đường phân cách thỏa thuận giữa hai miền Triều Tiên. Trong số 104 thủy thủ trên tàu, chỉ còn 58 người sống sót. Các thông tin cho rằng, tàu đã vướng vào ngư lôi sức công phá mạnh mang đầu nổ 200kg của Triều Tiên.
Trao đổi và so sánh các đặc điểm từ hai miền Triều Tiên, rồi từ Trung Quốc và Mỹ, cũng như vụ tàu Cheonan gặp thảm họa thực sự là cơn ác mộng trong hình dung của nhà phân tích mà tôi đã viết trên tờ Orbis (Tạp chí hàng đầu về quan hệ đối ngoại của Mỹ) với tiêu đề “Mỹ sẽ thất bại trong cuộc chiến hải quân năm 2015 như thế nào”.
Bài báo đưa ra giả thuyết về một cuộc tấn công bất ngờ của Trung Quốc khi họ sử dụng tên lửa đạn đạo chống hạm mới chống lại hàng không mẫu hạm Mỹ, chiếc USS George Washington. Ở đây có một sự tương đương, một mối quan hệ kỳ lạ giữa giả tưởng năm 2015 đăng trên Orbis với thảm họa tàu Cheonan.
Trong cảnh giả thuyết, Trung Quốc bắn tên lửa đạn đạo tiên tiến DF-21 vào tàu sân bay của Mỹ, sau đó phủ nhận khiến Mỹ rơi vào tình trạng lúng túng khó xử giống như Hàn Quốc hiện tại. Bất cứ một phản ứng phòng thủ nào cũng là nguy cơ dẫn tới cuộc chiến tranh lớn.
Viễn cảnh Trung Quốc thực hiện vụ tấn công bất ngờ, dĩ nhiên là có thể có nhiều tranh cãi. Nhưng dù sao, vấn đề lớn hơn là ở chỗ, Trung Quốc đã đầu tư thế nào trong nhiều thập niên nay qua một chiến dịch đầy kiên nhẫn và gây hấn nhằm dần dần đẩy các quốc gia khác ra khỏi Biển Đông và Biển Đông Trung Hoa (Trung Quốc gọi tắt là Đông Hải).
Hải quân Mỹ là mục tiêu chính, khi chính nó là trở ngại lớn nhất với chiến lược của Bắc Kinh. Kết quả: một chiến dịch phối hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn đến hoàn hảo của áp lực luật pháp, chính trị và quân sự - đôi khi gây hấn - cuối cùng đã đặt những vùng duyên hải vào sự chi phối của Trung Quốc.
Ví dụ, bắt đầu từ năm 2000, Trung Quốc đã tăng cường các cuộc tập trận của máy bay và tàu chiến, thậm chí còn bắt đầu sử dụng các tàu hải dương học và tàu giám sát ngư nghiệp để cố gắng cản trở, làm gián đoạn lộ trình thực hiện sức mệnh giám sát, thăm dò của quân đội Mỹ tại Biển Đông Trung Hoa.
Và nó khiến người ta nhớ đến vụ việc năm 2001 khi một máy bay do thám của Mỹ phải hạ cánh khẩn cấp xuống đảo Hải Nam vì va chạm với một máy bay chiến đấu của Trung Quốc. Trung Quốc sau đó đã thả 24 phi hành đoàn của Mỹ khi Mỹ lên tiếng xin lỗi.
Năm 2001, máy bay do thám EP-3 của Hải quân Mỹ đã va chạm mạnh với một máy bay chiến đấu của Trung Quốc. Kết quả là chiếc EP-3 hư hỏng nặng phải hạ cánh khẩn cấp xuống đảo Hải Nam. Năm 2003, một vụ việc tương tự mang tính chất “ngăn chặn” lại xảy ra.
Cách đây không lâu, báo chí Mỹ đã bàn luận nhiều tới một số vụ mà họ cho rằng Trung Quốc “quấy nhiễu” lực lượng không quân, hải quân nước này. Vào 7/3/2009, lực lượng hàng hải Trung Quốc bắt đầu “theo đuổi” tàu thăm dò đại dương USNS Impeccable của Mỹ. Một tàu tình báo, một tàu nghiên cứu hải dương học, một tàu giám sát ngư nghiệp và hai tàu hàng thương mại đã vượt qua mũi tàu Impeccable, và lập tức dừng ở phía trước con tàu.
Tổng thống Mỹ Obama đã điều động USS Chung-Hoon để hỗ trợ vũ trang cho tàu thăm dò. Đáp trả lại, Trung Quốc nhanh chóng triển khai tàu tuần tra giám sát hải dương thuộc loại lớn nhất, hiện đại nhất của mình - Ngư chính 311, tới Biển Đông nhằm xác định “quyền và lợi ích” của Trung Quốc.
Ba trường hợp kể ra trên đây chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Mùa hè năm 2001 và trở lại lần nữa năm 2002, các tàu và máy bay Trung Quốc đã khiêu khích và đe dọa USNS Bowditch và USNS Sumner, đang hoạt động ở Đông Hải. Không lâu sau Impeccable, tới lượt USNS Victorious bị quấy nhiễu. Trong từng trường hợp, Trung Quốc đã không tuân thủ bổn phận của mình theo quy định của luật pháp quốc tế là thể hiện sự tôn trọng quyền các tàu, máy bay của các quốc gia khác hoạt động ở Biển Đông và Biển Đông Trung Hoa.
Cùng thời điểm đó, Trung Quốc không ngừng đưa ra tuyên bố “chủ quyền” với gần như toàn bộ Biển Đông.
Đáng chú ý là, khu vực Hoàng Sa và Trường Sa nằm cách xa Trung Quốc, nhưng lại trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei.
Công ước Liên hợp quốc về Luật biển quy định rằng, mỗi quốc gia có vùng lãnh hải 12 hải lý và các đặc khu kinh tế - là các khu vực biển mở rộng 200 hải lý (370km) từ bờ biển của một quốc gia - để cho họ đặc quyền khai thác và sử dụng tài nguyên biển. Đặc khu kinh tế cho phép một nước quyền khai thác dầu khí, cá và các tài nguyên khác cùng quyền kiểm soát nghiên cứu hàng hải.
Tuy vậy, trong tháng 3, tờ New York Times đưa tin rằng, quan chức Trung Quốc đã nói với Thứ trưởng Ngoại giao James B. Steinberg rằng, Trung Quốc sẽ không chấp thuận “sự can thiệp của nước ngoài” vào “lãnh thổ” của họ ở Biển Đông. Đây là lần đầu tiên, Bắc Kinh coi “vùng lưỡi bò” như một lợi ích sống còn của quốc gia.
Steinberg nổi tiếng với cụm từ “chiến lược tái khẳng định” cho rằng, Mỹ nên tái đảm bảo với Trung Quốc là, việc gia tăng ảnh hưởng của họ được hoan nghênh, nhưng đổi lại, Trung Quốc cần tái đảm bảo với các nước láng giềng rằng, sự gia tăng này là hòa bình.
Song, bằng tuyên bố Biển Đông là “lãnh thổ”, Trung Quốc đã vươn tay quá xa khỏi vùng bờ biển của họ...
* (Còn tiếp)
-
Thái An (Theo diplomat)