,
221
1841
Hồ sơ
hoso
/chinhtri/hoso/
736159
Bộ Tài chính "giải trình" về việc phân bổ ngân sách
1
Article
452
Chính trị
chinhtri
/chinhtri/
,

Bộ Tài chính 'giải trình' về việc phân bổ ngân sách

Cập nhật lúc 18:37, Thứ Năm, 24/11/2005 (GMT+7)
,

"Đề nghị Bộ Tài chính xem xét một số quy định chi tiêu của Bộ Tài chính không còn phù hợp như: Công tác phí, hội nghị, đào tạo cán bộ"... là một trong những câu hỏi bức xúc của cử trị được đặt ra cho Bộ Tài chính.
>> Mời quý vị góp ý về phần chất vấn Bộ Trưởng Tài chính tại đây

Cử tri tỉnh Bình Phước:Để khắc phục một phần thiệt hại do hạn hán gây ra, kiến nghị Chính phủ bố trí cho ngân sách tỉnh 10 tỷ đồng để hỗ trợ cho nhân dân những khu vực bị thiệt hại năng để phục hồi diện tích bị mất trắng sau đợt hạn và ổn định đời sống; đồng thời bổ sung vốn đầu tư phát triển trong 2005 phục vụ cho việc đầu tư các hồ, đập thuỷ lợi theo quy hoạch, củng cố và nâng cấp hệ thống kênh mương”.

Soạn: AM 629398 gửi đến 996 để nhận ảnh này
Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Sinh Hùng đang trả lời báo chí.

Bộ Tài Chính trả lời: Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, ngân sách các địa phương đã được bố trí dự phòng ngân sách để giải quyết cho nhiệm vụ đột xuất phát sinh như: Thiên tai, dịch bệnh...; do vậy, trước hết địa phương phải chủ động sử dụng dự phòng ngân sách đã được bố trí và sắp xếp lại các khoản chi để khắc phục thiệt hại do thiên tai gây ra. Trường hợp thiên tai xảy ra trên diện rộng, kinh phí khắc phục hậu quả vượt quá khả năng cân đối ngân sách địa phương, ngân sách Trung ương sẽ hỗ trợ địa phương.

Theo nguyên tắc trên và tình hình thiệt hại do hạn hán trong mùa khô 2004-2005 trên địa bàn tỉnh Bình Phước, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định trích dự phòng ngân sách Trung ương năm 2005 hỗ trợ Tỉnh 1,25 tỷ đồng để khắc phục hậu quả hạn hán (Quyết định số 772/QĐ-TTg ngày 09/8/2005). Do vậy, đề nghị Tỉnh chủ động sử dụng ngân sách địa phương và số kinh phí ngân sách Trung ương hỗ trợ cùng các nguồn lực hợp pháp khác để trợ giúp nhân dân vùng bị thiệt hại nặng do hạn hán sớm phục hồi sản xuất và ổn định đời sống.

Việc đầu tư các hồ, đập thuỷ lợi và củng cố, nâng cấp hệ thống kênh mương do địa phương quản lý thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương. Căn cứ vào tổng mức vốn đầu tư trong dự toán ngân sách hàng năm, Uỷ ban nhân dân tỉnh trình Hội đồng nhân dân quyết định phân bổ cho các hạng mục công trình; trong đó Tỉnh cần chủ động sắp xếp thứ tự ưu tiên các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội trên địa bàn trong đó có ưu tiên vốn đầu tư cho các hồ, đập thuỷ lợi theo quy hoạch được duyệt. Những năm vừa qua, để giúp Tỉnh tháo gỡ một phần khó khăn về nguồn vốn đầu tư, Chính phủ đã cho Tỉnh vay từ nguồn vốn tín dụng ưu đãi (lãi suất 0%) là 87 tỷ đồng (trong đó vay trong năm 2005 là 15 tỷ đồng) để thực hiện chương trình kiên cố hoá kênh mương, đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng thuỷ sản và hạ tầng làng nghề ở nông thôn. Đồng thời, năm 2006 Chính phủ còn phân bổ nguồn trái phiếu Chính phủ hỗ trợ các địa phương đầu tư các công trình thuỷ lợi (trong đó có tỉnh Bình Phước); do vậy, đề nghị Tỉnh sử dụng nguồn vốn này, kết hợp với nguồn huy động của dân theo quy định để nâng cấp hệ thống kênh mương và chủ động sắp xếp ngân sách địa phương để đầu tư các hồ, đập thuỷ lợi do địa phương quản lý.

Cử tri tỉnh Yên Bái: “Hiện nay tình hình sạt lở bờ sông Hồng ở Yên Bái hết sức nghiêm trọng trong kỳ họp thứ sáu Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh cũng đã phản ánh ý kiến cử tri về vấn đề này. Thủ tướng Chính phủ đã cho phép tiến hành lập dự án và tổ chức triển khai thực hiện. Đề nghị Chính phủ bố trí hỗ trợ bổ sung kinh phí cho tỉnh Yên Bái năm 2005 là 80 tỷ đồng từ nguồn trái phiếu Chính phủ, nguồn dự phòng để tỉnh Yên Bái có điều kiện thực hiện dự án này nhằm khắc phục hậu quả do sạt lở gây ra, giúp ổn định đời sống cho nhân dân, an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế- xã hội.”.

Bộ Tài Chính trả lời: Việc sớm triển khai đầu tư xây dựng kè bờ sông Hồng tỉnh Yên Bái sẽ góp phần ổn định sản xuất và đời sống của nhân dân. Công trình kè sông Hồng tỉnh Yên Bái là công trình thuộc địa phương quản lý và không thuộc danh mục đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ; vì vậy, đề nghị tỉnh sớm lập phê duyệt đề án và huy động tối đa mọi nguồn lực (ngân sách địa phương và huy động các nguồn vốn hợp pháp khác) để triển khai đầu tư kè nhằm chống sạt lở bờ sông Hồng; ngân sách Trung ương xem xét hỗ trợ khi xảy ra thiên tai trên diện rộng, vượt quá khả năng ngân sách địa phương.

Cử tri Sơn La: “Về thực hiện chính sách theo Quyết định 118/TTg về hỗ trợ người có công với cách mạng cải thiện nhà ở: Sơn La là một tỉnh nghèo, nếu mức hỗ trợ của TW quy định hiện nay là bình quân 500 triệu/năm cộng với một phần ngân sách của tỉnh thì sẽ khó hoàn thành sớm được chương trình này. Hơn nữa là các đối tượng được hưởng chính sách phần lớn là người cao tuổi, nếu không quan tâm đẩy nhanh thì sẽ không được hưởng (tính đến nay đã giải quyết xong 3.352 hộ, hiện nay còn 3.690 hộ với mức hỗ trợ còn khoảng 28 tỷ đồng). Đề nghị Trung ương bổ sung kinh phí trong kế hoạch hàng năm, trước mắt năm 2005 xin bổ sung 20 tỷ đồng để Sơn La đẩy nhanh tiến độ thực hiện.”.

Bộ Tài Chính trả lời: Đối với cán bộ hoạt động cách mạng trước 31/12/1944, Ngân sách Trung ương thực hiện hỗ trợ cải thiện nhà ở theo Quyết định số 20/2000/QĐ-TTg ngày 3/2/2000 của Thủ tướng Chính phủ (trong đó, tỉnh Sơn La đã được hỗ trợ 1.649 triệu đồng). Đối với đối tượng là người có công với cách mạng còn lại, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 118/TTg ngày 27/2/1996 về việc hỗ trợ người có công với cách mạng cải thiện nhà ở; theo đó, việc hỗ trợ người có công với Cách mạng cải thiện nhà ở là trách nhiệm của toàn xã hội. Căn cứ điều kiện thực tế và khả năng của địa phương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định hỗ trợ người có công với cách mạng cải thiện nhà ở theo các hình thức: Tặng nhà tình nghĩa, hỗ trợ kinh phí để xây dựng sửa chữa nhà ở; hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần tiền sử dụng đất khi bán nhà của Nhà nước hoặc khi giao đất ở hoặc các hình thức hỗ trợ khác. Nguồn vốn thực hiện nhiệm vụ trên được thực hiện từ nguồn ngân sách của Nhà nước, đóng góp của các tổ chức, cá nhân và các nguồn khác.

Vì vậy, căn cứ tình hình thực tế và khả năng của địa phương, đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La chủ động triển khai hỗ trợ người có công với cách mạng cải thiện nhà ở với các mức hỗ trợ theo đúng Quyết định 118/TTg ngày 27/02/1996 của Thủ tướng Chính phủ.

Cử tri An Giang: “Về định mức phân bổ dự toán chi ngân sách cho các tỉnh, thành phố: Còn nhiều nội dung thuộc các lĩnh vực chi chưa được định mức, nhưng có quy định là “được phân bổ thêm một phần kinh phí, mức hỗ trợ do Chính phủ trình Quốc hội quyết định” như: các tỉnh có trường đại học, có nhiều đồng bào dân tộc, có biên giới… Điều này làm cho địa phương bị động trong việc lập dự toán chi ngân sách địa phương. Đề nghị sớm quy định các định mức chưa được hướng dẫn để lập dự toán ngân sách hàng năm.”.

Bộ Tài Chính trả lời: Theo quy định tại Quyết định số 139/2003/QĐ-TTg ngày 11/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành định mức phân bổ dự toán chi ngân sách nhà nước năm 2004 thì định mức phân bổ dự toán chi ngân sách cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ yếu được tính theo tiêu chí dân số có tính đến hệ số điều chỉnh giữa các vùng (đô thị, đồng bằng, núi thấp - vùng sâu, núi cao - hải đảo).

Ngoài ra, đối với một số lĩnh vực, các địa phương còn được phân bổ thêm (ngoài phần phân bổ theo đầu dân) như: các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có các trường đại học mang tính chất khu vực được phân bổ thêm để thực hiện công tác đào tạo, dạy nghề. Số phân bổ ngân sách bổ sung này được tính căn cứ định mức và số học sinh ngoài tỉnh theo học tại trường đại học của tỉnh. Các địa phương có đông đồng bào dân tộc ít người được phân bổ thêm để hỗ trợ thực hiện tăng thời lượng phát sóng phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc; các địa phương có huyện đảo, biên giới được phân bổ thêm để thực hiện nhiệm vụ an ninh - quốc phòng đặc thù;… Mức hỗ trợ căn cứ đối tượng được hưởng những chế độ chính sách của Nhà nước để xác định và do Chính phủ trình Quốc hội quyết định trong phương án phân bổ ngân sách Trung ương. Mức phân bổ thêm cho các địa phương nêu trên đã được Quốc hội quyết định khi thông qua phương án phân bổ ngân sách Trung ương năm 2004 và được ổn định trong thời kỳ ổn định ngân sách (từ 2004 đến hết 2006), để hàng năm các địa phương chủ động trong việc lập, phân bổ dự toán ngân sách cho các lĩnh vực này.

Đến thời kỳ ổn định ngân sách mới (từ năm 2007), Bộ Tài chính sẽ phối hợp với các Bộ liên quan, nghiên cứu đưa một số nội dung trong một số lĩnh vực chưa được quy định cụ thể nêu trên trình cấp có thẩm quyền quyết định cụ thể trong định mức phân bổ ngân sách nhà nước.

Cử tri tỉnh An Giang, Đăk Nông: “Về định mức chi tiêu ngân sách: Một số quy định chi tiêu cho công việc không còn phù hợp như: Công tác phí, hội nghị, đào tạo CBCC cần được sửa đổi, bổ sung. Đề nghị Bộ Tài chính xem xét lại chế độ chi tiêu hội nghị quy định tại thông tư số 118/2004/TT-BTC, của Bộ Tài chính, ngày 18/12/2004, “quy định về chế độ công tác phí, chế độ hội nghị đối với các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập trong cả nước”. Về nội dung chi và mức chi hội nghị tại thông tư này quy định: Đại biểu là người sở tại (nơi công tác hoặc nơi ở cách nơi tổ chức Hội nghị dưới 15 km) thì không được hỗ trợ tiền ăn và chi phí đi lại, như vậy là chưa phù hợp và rất khó khăn cho cơ quan tổ chức hội nghị. Đề nghị Bộ Tài chính nên quy định: Riêng đối với tiền ăn thì chi trả cho đại biểu, còn chi phí đi lại quy định tại thông tư như thế là hợp lý.”.

Bộ Tài Chính trả lời: Để phù hợp với tình hình thực tế và khả năng của ngân sách Nhà nước, trên tinh thần thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, trong thời gian qua Bộ Tài chính đã ban hành một số văn bản quy định khung định mức chi tiêu cụ thể:

- Thông tư số 118/2004/TT-BTC ngày 8/12/2004 quy định chế độ công tác phí, chế độ chi hội nghị đối với các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập trong cả nước thay thế các Thông tư: Thông tư số 94/1998/TT-BTC ngày  30/6/1998  quy định chế độ công tác phí cho cán bộ, công chức đi công tác trong nước, Thông tư số 93/1998/TT-BTC ngày 30/6/1998 quy định chế độ chi tiêu hội nghị, Thông tư số 74/1999/TT-BTC ngày 14/6/1999 quy định chế độ công tác phí đối với cán bộ xã và Thông tư số 75/1999/TT-BTC ngày 14/6/1999 quy định chế độ chi hội nghị ở xã;

- Thông tư số 79/2005/TT-BTC ngày 15/9/2005 hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước thay thế Thông tư số 105/2001/TT-BTC ngày 27/12/2001 hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước, Thông tư số 70/1998/TT-BTC ngày 21/5/1998 hướng dẫn về kinh phí hoạt động của Trung tâm bồi dưỡng Chính trị cấp huyện, Thông tư số 105/1998/TT-BTC ngày 23/7/1998 hướng dẫn thực hiện chế độ báo cáo viên của Đảng.

Với nghiên cứu sửa đổi quy định tại các văn bản nêu trên cơ bản bảo đảm phù hợp với tình hình thực tế, bù đắp được những chi phí cho cán bộ công chức nhà nước đi công tác và học tập trên tinh thần tiết kiệm.

Các văn bản trên quy định khung các mức chi, còn mức chi cụ thể do Thủ trưởng các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào tình hình cụ thể tại Bộ, ngành và địa phương để quy định mức chi cho phù hợp với tình hình thực tế và khả năng ngân sách của đơn vị nhưng không được vượt quá mức chi tối đa do Bộ Tài chính quy định.

Về nội dung chi hội nghị, Thông tư số 118/2004/TT-BTC ngày 8/12/2004 của Bộ Tài chính không quy định đại biểu người sở tại khi tham dự hội nghị phải cách trụ sở 15 km mới được hỗ trợ tiền ăn và chi phí đi lại.

Cử tri tỉnh An Giang: "Về quyết toán ngân sách Nhà nước: Đối với đơn vị lập dự toán cấp 1 vừa là đơn vị sử dụng ngân sách, nên giao cho cơ quan tài chính thẩm định quyết toán thay vì phê duyệt quyết toán. Cần mở thêm tổng mức vốn địa phương được huy động: Để đầu tư phát triển qua hình thức phát hành trái phiếu, vay ngân sách.”.

Bộ Tài Chính trả lời: Theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, quy trình quyết toán ngân sách chia thành 4 giai đoạn:

1. Giai đoạn lập quyết toán do đơn vị sử dụng ngân sách thực hiện.

2. Giai đoạn duyệt quyết toán do đơn vị dự toán cấp trên thực hiện.

3. Giai đoạn thẩm định quyết toán do cơ quan tài chính thực hiện.

4. Giai đoạn phê chuẩn (phê chuẩn tổng quyết toán) do Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân thực hiện.

Đối với đơn vị sử dụng ngân sách đồng thời là đơn vị dự toán cấp I, không có đơn vị dự toán cấp trên, sau khi lập báo cáo quyết toán không có đơn vị dự toán cấp trên kiểm tra và duyệt quyết toán; do đó, cần giao trách nhiệm cho một cơ quan duyệt quyết toán của những đơn vị này. Vì vậy, trong Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước, tại Khoản 3, Điều 70 đã quy định: Trường hợp đơn vị dự toán cấp I, đồng thời là đơn vị sử dụng ngân sách; cơ quan tài chính (đồng cấp) duyệt quyết toán và thông báo kết quả xét duyệt quyết toán cho đơn vị dự toán cấp I. Như vậy, trong trường hợp này cơ quan tài chính vừa đóng vai trò duyệt quyết toán vừa đóng vai trò thẩm định quyết toán.

Nếu giao cho cơ quan tài chính (đồng cấp) chỉ thẩm định quyết toán như đề nghị của cử tri tỉnh An Giang thì vẫn chưa có cơ quan nào thực hiện duyệt quyết toán, tức là chưa có cơ quan nào kiểm tra, duyệt các khoản thu, chi xem có đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức, có đủ chứng từ chi theo chế độ quy định. Do đó, chưa đủ căn cứ để tổng hợp vào quyết toán trình Hội đồng nhân dân phê chuẩn theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.

Cử tri tỉnh Đăk Lăk: “Đề nghị Trung ương bố trí cân đối khoản chi ngân sách cho cán bộ không chuyên trách cấp xã (theo Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ) cho các địa phương chưa cân đối được ngân sách. Thực hiện kiểm soát chi đối với ngân sách xã, Kho bạc yêu cầu tạm ứng chi ngân sách xã đến tiểu mục là không phù hợp. Đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu sửa đổi, bổ sung tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động của cấp xã.“.

Bộ Tài Chính trả lời:

1/ Về đề nghị Trung ương bố trí cân đối khoản chi ngân sách cho cán bộ không chuyên trách cấp xã theo Nghị định số 121/2003/NĐ-CP:

Ngày 21/10/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 121/2003/NĐ-CP về chính sách chế độ đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; theo đó nguồn kinh phí thực hiện Nghị định 121/2003/NĐ-CP được thực hiện như sau:

- Đối với cán bộ chuyên trách và công chức xã, ngân sách Trung ương bổ sung kinh phí cho các địa phương thiếu nguồn thực hiện từ nguồn cải cách tiền lương.

- Đối với cán bộ không chuyên trách, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định số lượng cán bộ, mức phụ cấp cho phù hợp thực tế và khả năng ngân sách địa phương. Do khó khăn về nguồn, nhất là các tỉnh miền núi, Tây Nguyên nên nhiều địa phương đã kiến nghị trung ương hỗ trợ để địa phương có thể thực hiện chế độ đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã theo Nghị định số 121/2003/NĐ-CP .

Từ thực tế nêu trên, Bộ Tài chính đã có văn bản số 11027/BTC-NSNN ngày 31/8/2005 trình Thủ tướng Chính phủ xem xét hỗ trợ một phần đối với các tỉnh khó khăn về nguồn thực hiện chế độ nói trên đối với cán bộ không chuyên trách ở xã theo Nghị định số 121/2003/NĐ-CP của Chính phủ từ nguồn thực hiện cải cách tiền lương đã được cấp có thẩm quyền quyết định.

2/ Về kiểm soát chi ngân sách xã của Kho bạc nhà nước:

Bộ Tài chính đã có Văn bản số 7451/TC-NSNN ngày 8/7/2004 về hướng dẫn thực hiện quản lý thu, chi ngân sách xã theo Luật Ngân sách nhà nước, tại Điểm 5 quy định: Căn cứ dự toán ngân sách xã và phương án phân bổ ngân sách xã cả năm đã được Hội đồng nhân dân xã quyết định; Uỷ ban nhân dân xã phân bổ chi tiết dự dự toán chi thường xuyên ngân sách xã theo từng loại của Mục lục ngân sách nhà nước và theo nhóm mục: (1) Chi thanh toán cá nhân; (2) Chi nghiệp vụ chuyên môn; (3) Chi mua sắm, sửa chữa; (4) Các khoản chi khác. Bảng phân bổ này gửi Kho bạc nhà nước nơi giao dịch để làm căn cứ thanh toán và kiểm soát chi.

Trước đây, do tính đặc thù của cấp ngân sách xã và để tạo thuận lợi trong quá trình chi tiêu của xã, Kho bạc Nhà nước (KBNN) đã quy định cho phép xã được sử dụng lệnh chi tiền để tạm ứng chi ngân sách xã theo 2 hình thức là tạm ứng chi trong dự toán và tạm ứng chi ngoài dự toán. Đối với hình thức tạm ứng chi trong dự toán, KBNN thực hiện kiểm soát chi tạm ứng, thanh toán và hạch toán kế toán tạm ứng đến tiểu mục. Tuy nhiên, quy định này khi áp dụng vào thực tế đã gây khó khăn cho việc chi tiêu của xã.

Vì vậy, ngày 16/5/2005 Bộ Tài chính (Kho bạc Nhà nước) đã có công văn số 744 KB/KT sửa đổi quy định trên. Theo đó, kể từ ngày 01/07/2005 việc tạm ứng chi ngân sách xã được thực hiện theo mục chi ngoài ngân sách, không yêu cầu xã phải ghi chi tiết khoản tạm ứng đến tiểu mục.

Cử tri tỉnh Cao Bằng: “Đề nghị Quốc hội nghiên cứu có Nghị quyết về tỷ lệ ngân sách dự phòng ở cấp tỉnh, cấp huyện thị, để chủ động trong việc giải quyết hậu quả thiên tai, lũ lụt. Vì đối với những tỉnh còn nghèo so với mặt bằng chung của cả nước không tự bố trí được ngân sách dự phòng.”

Bộ Tài Chính trả lời: Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, ngân sách các cấp được bố trí khoản dự phòng từ 2% đến 5% tổng số chi để phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn, nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng, an ninh và nhiệm vụ cấp bách khác phát sinh ngoài dự toán.

Thực hiện quy định trên của Luật Ngân sách nhà nước, dự toán chi ngân sách tỉnh Cao Bằng năm 2004, 2005 cũng như các địa phương khó khăn khác đã được Thủ tướng Chính phủ giao đều đã bố trí khoản chi dự phòng ngân sách bằng 3% tổng số chi cân đối ngân sách địa phương. Căn cứ vào điều kiện thực tế ở các cấp chính quyền địa phương, Uỷ ban nhân dân từng cấp chính quyền địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua dự toán ngân sách hàng năm phải đảm bảo bố trí khoản dự phòng ngân sách từ 2% đến 5% tổng chi từng cấp có nguồn để chi phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn, nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng, an ninh và nhiệm vụ cấp bách khác phát sinh ngoài dự toán theo đúng quy định của Luật NSNN.

Cử tri tỉnh Phú Thọ: “Để có đội ngũ công nhân kỹ thuật đủ về số lượng cũng như chất lượng, đáp ứng được trình độ tay nghề phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đề nghị hàng năm Nhà nước cần bố trí ngân sách với tỷ lệ là 5,5% vào năm 2005 và 7,3% vào năm 2010 trong tổng ngân sách chi cho Giáo dục - Đào tạo. Vì việc đầu tư máy móc, trang thiết bị thực hành trong các trường đào tạo nghề hiện nay là rất lớn..”

Bộ Tài Chính trả lời: Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 xác định mục tiêu đối với phát triển giáo dục nói chung và với giáo dục nghề nghiệp nói riêng: Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân lực khoa học – công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề.

Xác định vai trò quan trọng của việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, tay nghề cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; trong những năm qua Nhà nước đã tập trung ưu tiên đầu tư ngân sách đối với giáo dục và đào tạo nói chung và dạy nghề nói riêng; chi NSNN cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) đã tăng từ 15% năm 2000 lên 18% năm 2005; trong đó đã thực hiện ưu tiên tăng đầu tư đối với dạy nghề, tỷ trọng chi ngân sách dạy nghề trong tổng chi GD&ĐT tăng lên, năm 2000 là 5,5%, năm 2001 là 5,8%, năm 2002 là 6,2%,… năm 2005 đạt 6,5%. Thực hiện Nghị quyết Quốc hội với mức độ ưu tiên đầu tư ngân sách cho lĩnh vực GD&ĐT đạt 20% tổng chi NSNN trước năm 2010 từ 2 đến 3 năm và định hướng phát triển dạy nghề, phấn đấu đến năm 2010 chi ngân sách cho dạy nghề đạt mức 7,3% tổng chi cho lĩnh vực GT&ĐT như ý kiến của cử tri. Bên cạnh đó, đẩy mạnh xã hội hoá công tác đào tạo nghề phấn đấu đến năm 2010 có 60% cơ sở dạy nghề ngoài công lập (hiện nay trên 40%) để huy động các nguồn lực xã hội cùng với nguồn ngân sách nhà nước đầu tư cho dạy nghề.

Cử tri tỉnh Quảng Ngãi: “Đề nghị Chính phủ có cơ chế ưu tiên cấp đủ kinh phí cho những tỉnh chưa có khả năng cân đối ngân sách để thực hiện kịp thời các chế độ chính sách của trung ương mới ban hành (chế độ hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg, chế độ hoạt động của tổ chức Đảng các cấp, chế độ cho cán bộ không chuyên trách cấp xã, chế độ khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi, chính sách đào tạo cán bộ xã, thực hiện Pháp lệnh dân quân tự vệ... Hiện nay, Chính phủ chỉ hỗ trợ một phần kinh phí nên địa phương gặp khó khăn, không thực hiện được.”.

Bộ Tài Chính trả lời: Thực hiện Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo đời sống khó khăn; Quyết định số 84-QĐ/TW ngày 1/10/2003 của Ban Bí thư qui định chế độ hoạt động công tác Đảng của tổ chức Đảng các cấp; Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn; Luật Chăm sóc và Bảo vệ trẻ em; Pháp Lệnh dân quân tự vệ…Chính phủ đã cân đối kinh phí trong dự toán ngân sách hàng năm trình Quốc hội theo nguyên tắc: Đối với những địa phương có mức điều tiết cao về ngân sách Trung ương do hàng năm có tăng thu lớn thì chủ động sắp xếp cân đối trong phạm vi ngân sách địa phương để thực hiện. Các tỉnh miền núi và vùng miền núi hỗ trợ 100%, các tỉnh còn lại và vùng còn lại hỗ trợ 70%.

Riêng phụ cấp cho cán bộ xã không chuyên trách, theo quy định thì: Đối tượng và mức phụ cấp do địa phương quyết định; đồng thời, địa phương chủ động bố trí kinh phí từ ngân sách địa phương để đảm bảo. Nhưng thực tế, nhiều địa phương do quy mô ngân sách nhỏ, tăng thu thấp nên việc chi trả gặp khó khăn, do vậy Bộ Tài chính đã tổng hợp nhu cầu chung của các địa phương và đang trình Thủ tướng Chính phủ xem xét hỗ trợ một phần đối với một số địa phương (ngân sách Trung ương phải bổ sung để thực hiện chế độ tiền lương mới); trong đó có tỉnh Quảng Ngãi.

Cử tri tỉnh Long An: “Đề nghị Chính phủ chuyển 50% nguồn từ xổ số kiến thiết cân đối cho chi thường xuyên sang chi đầu tư hạ tầng nhằm phát triển cơ sở vật chất của địa phương; Hỗ trợ cho địa phương phần thu vượt đối với nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu để địa phương có nguồn vốn tái đầu tư cho kinh tế cửa khẩu.”.

Bộ Tài Chính trả lời: Về đề nghị Chính phủ chuyển 50% nguồn thu từ hoạt động xổ số kiến thiết cân đối chi thường xuyên cho mục đích chi đầu tư cơ sở hạ tầng nhằm phát triển cơ sở vật chất của địa phương: Theo quy định tại Điều 32 Luật Ngân sách nhà nước (năm 2002) có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004, nguồn thu từ hoạt động xổ số kiến thiết là khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100% để cân đối chung cho các nhiệm vụ chi ngân sách địa phương được quy định tại Điều 33 Luật Ngân sách nhà nước, trong đó có nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội do địa phương quản lý. Tại khoản 2 Điều 25 Luật Ngân sách nhà nước, việc phân bổ cho các nhiệm vụ chi ngân sách địa phương cho từng lĩnh vực do Hội đồng nhân dân địa phương quyết định. Vì vậy, việc quyết định đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong cân đối chi ngân sách địa phương hàng năm, Uỷ ban nhân dân cần lập phương án cụ thể trình Hội đồng nhân dân quyết định trên cơ sở nguồn thu ngân sách địa phương theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.

Về kiến nghị của Cử tri tỉnh Long An, Bộ Tài chính xin tiếp thu để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định từ dự toán Ngân sách nhà nước năm 2006 theo nguyên tắc: số thu xổ số kiến thiết từ 50 tỷ đồng trở xuống đầu tư trở lại 100%, số thu từ trên 50 tỷ đồng đầu tư trở lại 50% số trên 50 tỷ đồng.

Về đề nghị hỗ trợ địa phương phần thu thuế xuất nhập khẩu vượt dự toán được cấp có thẩm quyền giao, để địa phương sử dụng vào mục đích đầu tư cơ sở hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu: Theo quy định tại Điều 30 Luật ngân sách nhà nước (năm 2002) có hiệu lực thi hành từ năm 2004, thì nguồn thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu là khoản thu ngân sách Trung ương hưởng 100%, và được sử dụng cho các nhiệm vụ chi thuộc ngân sách trung ương được quy định tại Điều 31 và khoản 1 Điều 59 Luật ngân sách nhà nước. Do đó, đề nghị địa phương thực hiện theo đúng quy định của Luật ngân sách nhà nước.

Trường hợp đối với những cửa khẩu lớn, có tác động đến phát triển kinh tế - xã hội trong cả vùng và cả nước mà kinh phí đầu tư vượt quá khả năng ngân sách của địa phương, thì trên cơ sở dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính sẽ xem xét để trình Chính phủ, Quốc hội hỗ trợ có mục tiêu trong dự toán ngân sách nhà nước theo quy định.

Cử tri tỉnh Ninh Thuận: “Cử tri ở các xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn kiến nghị nhà nước xem xét đầu tư 100% vốn xây dựng các trường cho bậc học mầm non, bởi nhân dân quá nghèo không thể thực hiện được theo phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm.”.

Bộ Tài Chính trả lời: Theo Luật Ngân sách nhà nước thì việc xây dựng các trường học mầm non thuộc xã thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương. Để giúp Tỉnh tháo gỡ một phần khó khăn về nguồn lực đầu tư kiên cố hoá trường, lớp học; Chính phủ đã hỗ trợ Tỉnh thông qua Chương trình 135. Theo đó, hàng năm trong dự toán ngân sách Chính phủ giao cho Tỉnh đã bố trí hỗ trợ nhiều tỷ đồng để hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng ở các xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn (như năm 2002 là 7,2 tỷ đồng, năm 2003 là 9 tỷ đồng, năm 2004 là 9 tỷ đồng và năm 2005 là 9 tỷ đồng). Do vậy, việc xây dựng trường học cho bậc học mầm non ở các xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn do địa phương chủ động sắp xếp từ nguồn ngân sách địa phương được giao hàng năm, nguồn vốn hỗ trợ từ Ngân sách Trung ương và huy động các nguồn lực hợp pháp khác để ưu tiên vốn xây dựng đủ trường học theo quy định cho bậc học mầm non ở các xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn.

Cử tri tỉnh Bình Định: "Nhiều cử tri tiếp tục phản ánh các hộ kinh doanh máy cày đóng thuế thu nhập doanh nghiệp 28% là quá cao, ảnh hưởng đến chi phí đầu tư ở khâu làm đất của nông dân. Đề nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét, sửa đổi nhằm tạo điều kiện cho cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp.”.

Bộ Tài Chính trả lời: Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành quy định một mức thuế suất 28% áp dụng thống nhất cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh có thu nhập chịu thuế, không phân biệt thành phần kinh tế, loại hình cơ sở kinh doanh.

Tuy nhiên, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn Luật cũng có những quy định về mức thuế suất ưu đãi dành cho các doanh nghiệp mới thành lập đầu tư vào những ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn được nhà nước khuyến khích đầu tư và/hoặc sử dụng nhiều lao động.

Theo quy định tại Danh mục A ngành nghề, lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư ban hành kèm theo Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thì các dự án đầu tư sản xuất máy công cụ, máy móc, thiết bị, phụ tùng, máy phục vụ cho sản xuất nông, lâm nghiệp thuộc diện được hưởng ưu đãi.  Trong danh mục không quy định việc các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh máy cày được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.

Cử tri tỉnh Tây Ninh, Bình Phước, Vĩnh Long: “Khi định lại giá đất theo thị trường thì một thực tế phát sinh đi kèm đó là thuế trước bạ và thuế chuyển mục đích sử dụng đất hiện nay quá cao, một số cử tri chuyển từ đất vườn lên đất thổ cư khi ra riêng cho con hoặc đối với những hộ công nhân viên mua đất cất nhà riêng khi lập gia đình thì gặp rất nhiều khó khăn, họ không đủ điều kiện để mua đất và chuyển mục đích sử dụng đất. Đề nghị Chính phủ xem xét điều chỉnh giảm mức thuế chuyển mục đích quyền sử dụng đất.”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Thứ nhất, theo quy định pháp luật hiện hành của Nhà nước, không có  thuế chuyển mục đích quyền sử dụng đất. Các văn bản pháp luật về đất đai hiện hành quy định Nhà nước thực hiện thu:

- Tiền sử dụng đất, lệ phí trước bạ đất khi chuyển mục đích sử dụng đất;

- Thuế chuyển quyền sử dụng đất và lệ phí trước bạ đất khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Do đó, trường hợp kiến nghị của cử tri "chuyển từ đất vườn lên đất thổ cư khi ra riêng cho con hoặc đối với những hộ công nhân viên mua đất cất nhà riêng khi lập gia đình thì gặp rất nhiều khó khăn, họ không đủ điều kiện để mua đất và chuyển mục đích sử dụng đất" thuộc phạm vi áp dụng của chính sách thu tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất.

Thứ hai, Tại Điều 36 Luật Đất đai đã quy định rõ:

“Việc chuyển mục đích sử dụng đất giữa các loại đất quy định tại Điều 13 của Luật này được thực hiện như sau:

1- Trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm:

...

c- Chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp;

d- Chuyển đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất sang đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất;

đ- Chuyển đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở.

...

4- Khi chuyển mục đích sử dụng đất trong trường hợp quy định tại các điểm c, d và đ khoản 1 Điều này thì người sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định sau đây:

a- Nộp tiền sử dụng đất theo loại đất sau khi được chuyển mục đích sử dụng đối với trường hợp chuyển đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất phi nông nghiệp không thu tiền sử dụng đất sang đất phi nông nghiệp có thu tiền sử dụng đất;

b- Nộp tiền sử dụng đất theo loại đất sau khi được chuyển mục đích sử dụng trừ đi giá trị quyền sử dụng đất của loại đất trước khi chuyển mục đích sử dụng tính theo giá đất do Nhà nước quy định tại thời điểm được phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với trường hợp chuyển đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối sang đất phi nông nghiệp có thu tiền sử dụng đất;

c- Nộp tiền sử dụng đất theo loại đất sau khi được chuyển mục đích sử dụng trừ đi tiền sử dụng đất theo loại đất trước khi chuyển mục đích sử dụng đối với trường hợp chuyển đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở;

..."

Căn cứ quy định trên đây, ngày 3/12/2004 Chính phủ ban hành Nghị định số 198/2004/NĐ-CP về thu tiền sử dụng đất, trong đó Điều 6 đó đã quy định cụ thể việc thu tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất tại như sau:

2. Đối với hộ gia đình, cá nhân:

a) Chuyển từ đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư không được công nhận là đất ở sang làm đất ở thì thu tiền sử dụng đất bằng 50% chênh lệch giữa thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở với thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất nông nghiệp;

b) Chuyển từ đất nông nghiệp được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất sang đất ở thì thu tiền sử dụng đất bằng mức chênh lệch giữa thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở với thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất nông nghiệp;

c) Chuyển mục đích sử dụng đất có nguồn gốc từ nhận chuyển nhượng của người sử dụng đất hợp pháp sang đất ở thì thu tiền sử dụng đất như sau:

- Đất nhận chuyển nhượng có nguồn gốc là đất nông nghiệp thì thu tiền sử dụng đất bằng mức chênh lệch giữa thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở với thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất nông nghiệp;

- Đất nhận chuyển nhượng có nguồn gốc là đất phi nông nghiệp (không phải là đất ở) thì thu tiền sử dụng đất bằng mức chênh lệch giữa thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở với thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất phi nông nghiệp.

Quy định trên của Nghị định số 198/2004/NĐ-CP đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 36 Luật Đất đai và tình hình thực tế trong quản lý, sử dụng đất đai ở các vùng, miền khác nhau trong cả nước.

Cử tri tỉnh Tiền Giang: “Nghị định số 129/2003/NĐ-CP ngày 3/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 15/2003/QHK11 của Quốc hội và Thông tư số 112/2003/TT-BTC ngày 19/11/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn miễn giảm thuế sử dụng đất sản xuất nông nghiệp từ năm 2003- 2010 thì các đối tượng là cán bộ, công chức, quân nhân chuyên nghiệp, sỹ quan quân đội .v.v.. kể cả diện nghỉ hưu, mất sức lao động đang hưởng trợ cấp hoặc bảo hiểm xã hội nhưng gia đình có sản xuất nông nghiệp không được miễn 100% thuế sử dụng đất nông nghiệp mà chỉ được giảm 50% số thuế. Qua hơn 2 năm thực hiện đã xuất hiện rất nhiều ý kiến thắc mắc, đa số cử tri đề nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét lại quy định này theo hướng miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho các đối tượng nêu trên như nông dân, vì khoản thu này không lớn mà tạo ra tâm lý so bì, không công bằng trong việc thực thi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương…”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Kiến nghị nêu trên của cử tri tỉnh Tiền Giang đã được Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tiền Giang phản ánh tại điểm 3, điểm 4 công văn số 45/CV-ĐĐB ngày 03/6/2005 và đã được Bộ Tài chính trả lời tại công văn số 9635 /BTC-CST ngày 01/8/2005 với nội dung như sau: "...Bộ Tài chính xin tiếp thu, ghi nhận để nghiên cứu, trình với Quốc hội và Chính phủ xem xét sửa đổi, bổ sung vào thời gian thích hợp"

Cử tri tỉnh Vĩnh Long: “Đề nghị Nhà nước hỗ trợ về thuế cũng như có một số chính sách khác ưu đãi cho những nhà máy sản xuất và chế biến vật tư nông nghiệp trong nước, tạo điều kiện và cơ hội cạnh tranh cho những cơ sở sản xuất này tham gia trên thị trường, cũng nhằm phần nào giúp cho việc ổn định về giá.”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Bộ Tài chính ghi nhận ý kiến của đại biểu Quốc hội để nghiên cứu trình Chính phủ và Quốc hội xem xét, quyết định. Tuy nhiên, việc có quy định ưu đãi thuế dành riêng cho các cơ sở sản xuất vật tư nông nghiệp trong nước vào thời điểm hiện nay là khó thực hiện, và trái với các nguyên tắc của hội nhập (Việt Nam đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, vì vậy buộc phải tuân thủ các nguyên tắc của tổ chức này, trong đó có nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước).

Cử tri tỉnh Ninh Thuận: “Cử tri ngành thuế phản ánh: hiện công tác quản lý nguồn tại chính để thu thuế đối với các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn do nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không đăng ký tài khoản trong ngân hàng và trong hoạt động giao dịch chủ yếu là giao dịch bằng tiền mặt. Cử tri kiến nghị Chính phủ cần xem xét, có quy định bắt buộc các doanh nghiệp phải đăng ký tài khoản trong ngân hàng đồng thời hạn chế giao dịch bằng tiền mặt..

Bộ Tài Chính trả lời:

Theo kinh nghiệm quốc tề, khi các giao dịch thương mại trong nền kinh tế  được thanh toán chủ yếu dưới hình thức tiền mặt mà  không có sự kiểm soát của các khâu tài chính trung gian như Ngân hàng, tổ chức tín dụng... thì việc kiểm soát nền kinh tế của Nhà nước sẽ gặp rất nhiều khó khăn do sự chi phối của các thế lực "kinh tế ngầm". Trong một nền kinh tế như vậy thì công tác tác quản lý thu thuế cũng sẽ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt việc quản lý thuế đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì các giao dịch kinh tế của đối tượng doanh nghiệp này thường phân tán, nhỏ lẻ và không có  khuôn mẫu nhất định; trụ sở kinh doanh và chủ các doanh nghiệp cũng hay thay đổi bất thường, đặc biệt các giao dịch thanh toán hầu hết là dùng tiền mặt.

Việt Nam hiện nay cũng đang ở tình trạng nền kinh tế nhỏ lẻ, phân tán và số lượng hầu hết các doanh nghiệp thuộc diện doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để hạn chế tình trạng thất thu thuế đối với các đối tượng trên, ngành thuế đã đề ra nhiều giải pháp như: trước hết, cơ quan thuế tập trung tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ; nghiên cứu áp dụng biện pháp thanh tra trên cơ sở đánh giá các  rủi ro và xử phạt nghiêm minh đối với các vi phạm pháp luật về thuế; đồng thời, ngành thuế cũng đã kiến nghị với Nhà nước có quy định bắt buộc các doanh nghiệp phải đăng ký tài khoản tại ngân hàng và thanh toán cho các giao dịch kinh tế bằng chuyển khoản qua Ngân hàng, hạn chế thấp nhất việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt  nhằm kiểm soát được luồng luân chuyển tiền tệ, hạn chế tối đa việc gian lận của các doanh nghiệp  và làm lành mạnh hoá chính sách tiền tệ của Nhà nước.

Trong thời gian tới, Việt Nam ngày càng hội nhập kinh tế và mở rộng giao lưu kinh tế với quốc tế và các nước trong khu vực. Do vậy, việc bắt buộc việc thanh toán cho các giao dịch kinh tế phải thực hiện thông qua các khâu tài chính trung gian là hết sức cần thiết. Bộ Tài chính phối hợp với Ngân hàng Nhà nước và các đơn vị có liên quan tăng cường quản lý thuế theo hướng thực hiện thanh toán qua ngân hàng và các định chế tài chính, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.

Cử tri thành phố Hồ Chí Minh: “Tiếp tục duy trì chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho các công ty niêm yết. Tuy nhiên, để khuyến khích các doanh nghiệp cổ phần hoá lên niêm yết, chính sách ưu đãi thuế nên căn cứ theo thời gian doanh nghiệp tham gia niêm yết sau khi cổ phần hoá. Ví dụ: Nếu doanh nghiệp đăng ký niêm yết trong vòng 01 năm sau khi cổ phần hoá sẽ được giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 05 năm tiếp theo. Nếu doanh nghiệp đăng ký niêm yết trong vòng 02 năm sẽ được giảm thuế trong 04 năm tiếp theo và nếu sau 05 năm kể từ khi cổ phần hoá doanh nghiệp mới đăng ký niêm yết thì sẽ không còn được hưởng ưu đãi về thuế. Để phát huy hiệu quả,  chính sách ưu đãi thuế cần phải được duy trì ổn định trong vòng tối thiểu 05 năm.”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các tổ chức niêm yết và đăng ký giao dịch chứng khoán tại các Trung tâm giao dịch chứng khoán đang được Bộ Tài chính nghiên cứu để báo cáo Chính phủ, Quốc hội xem xét nhằm khuyến khích các doanh nghiệp niêm yết, đăng ký giao dịch chứng khoán, tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán phát triển.

Cử tri thành phố Hồ Chí Minh: Về xét miễn thuế: có ý kiến đề nghị hàng hoá là quà biếu, quà tặng, hàng mẫu của tổ chức cá nhân nước ngoài cho tổ chức, cá nhân Việt Nam và ngược lại trong định mức quy định (hiện nay theo Nghị định 66 thì quà biếu, quà tặng có giá trị 1 triệu đồng trở xuống được miễn thuế) thì đương nhiên được miễn thuế, không phải qua thủ tục xét miễn thuế.”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Theo qui định của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1998; Nghị định số 94/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ; Thông tư 87/2004/TT-BTC ngày 31/8/2004 của Bộ Tài chính thì: hàng quà biếu quà tặng của các tổ chức, cá nhân nước ngoài  cho các tổ chức cá nhân Việt nam; hàng mẫu thuộc đối tượng được xét miễn thuế; hồ sơ thủ tục được qui định rõ tại các văn bản trên.

Trong quá trình thực hiện, Bộ Tài chính tiếp tục chỉ đạo cơ quan hải quan thực hiện cải cách về mặt thủ tục để vừa đảm bảo sự thuận tiện tối đa cho người dân, vừa đảm bảo các yêu cầu về quản lý nhà nước theo đúng quy định của pháp luật về xuất nhập khẩu.

Cử tri thành phố Hồ Chí Minh:Nên có quy định giới hạn về mức phạt tối đa so với số nợ thuế, nợ phạt, vì thực tế nhiều doanh nghiệp nợ thuế, khi nộp thuế xong số tiền phạt có thể gấp 2-3 lần số thuế phải nộp (quy định hiện hành mỗi ngày nộp chậm phải nộp 0,1% số tiền chậm nộp), do đó doanh nghiệp đã khó khăn càng khó khăn hơn. Đề nghị số nộp chậm tối đa là 50% số nợ thuế.”

Bộ Tài Chính trả lời: Theo quy định tại các luật thuế, pháp lệnh về thuế hiện hành thì các cơ sở kinh doanh chậm nộp tiền thuế, tiền phạt thì mỗi ngày nộp chậm tiền thuế, tiền phạt xử phạt thì bị xử phạt 0,1% trên số tiền thuế, tiền phạt chậm nộp mà không khống chế mức tiền phạt so với số tiền thuế, tiền phạt chậm nộp.

Biện pháp cưỡng chế này là nhằm đảm bảo các nghĩa vụ nộp thuế được thi hành nghiêm.  Nếu khống chế số nộp chậm sẽ dẫn đến chính sách bị lợi dụng, tạo ra sự không công bằng giữa các doanh nghiệp, cá nhân chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ thuế và các doanh nghiệp, cá nhân không chấp hành nghiêm các nghĩa vụ thuế.

Cử tri thành phố Hồ Chí Minh: “Có cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn giữa Hải quan và Ngân hàng để trích tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp tại ngân hàng để nộp thuế, nộp phạt; quy định cơ quan hải quan có quyền phong toả tài khoản của doanh nghiệp tại ngân hàng (việc phong toả sẽ áp dụng bằng cách thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, buộc các ngân hàng mà doanh nghiệp có tài khoản tiền gửi phải thông báo bằng văn bản đối với cơ quan thuế, cơ quan hải quan nhằm áp dụng các biện pháp trích tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp vào việc thu hồi thuế).”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Bộ Tài chính đã chỉ đạo hướng dẫn Tổng cục Hải quan ban hành công văn số 3053/TCHQ-KTTT ngày 27/6/2003 gửi Ngân hàng Nhà nước Việt nam đề nghị phối hợp với cơ quan Hải quan trong việc trích tiền gửi của đối tượng nộp thuế từ tài khoản của đối tượng mở tại các ngân hàng để nộp thuế theo quy định của Luật thuế xuất nhập khẩu; văn bản số 946/CV-KTTTC2 yêu cầu các ngân hàng thương mại nhà nước, thương mại cổ phần, liên doanh; chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam phối hợp chặt chẽ với các Cục Hải quan địa phương thu hồi nợ đọng thuế.

Việc phối hợp như trên đã có những kết quả nhất định. Tuy nhiên, việc trích tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp tại các ngân hàng thường gặp khó khăn do: số dư tiền gửi trên tài khoản của doanh nghiệp nợ thuế tại ngân hàng thường đã hết hoặc còn rất nhỏ so với số thuế phải nộp. Mặt khác, mỗi doanh nghiệp thường mở tài khoản ở nhiều ngân hàng khác nhau, đặc biệt là ở các ngân hàng thương mại cổ phần, chi nhánh ngân nước ngoài tại Việt Nam. Do đó, việc phối hợp thu hồi nợ thuế rất khó khăn do các ngân hàng thường muốn giữ bí mật cho các khách hàng của mình.

Hiện nay, Bộ Tài chính đang soạn thảo văn bản trình Chính phủ ban hành quy chế xử lý cưỡng chế đối tượng nợ thuế để cơ quan thu thuế phối hợp với ngân hàng - công an thu hồi nợ phải thực hiện trích tài khoản của doanh nghiệp để nộp thuế.

Cử tri thành phố Hồ Chí Minh: “Cần quy định chế tài nghiêm khắc đối với doanh nghiệp vi phạm, đồng thời cũng phải có chế tài cụ thể đối với cán bộ công chức ngành Hải quan có tiêu cực, nhũng nhiễu doanh nghiệp. Quy định rõ hơn về trách nhiệm của Hải quan trong quá trình thực thi pháp luật về thuế XNK, ví dụ: trường hợp “nhầm lẫn trong kê khai, tính thuế” thì cần quy định rõ nếu doanh nghiệp nhầm lẫn thì chịu trách nhiệm gì, Hải quan nhầm lẫn thì chịu trách nhiệm ra sao? Hoặc trường hợp Hải quan lạm thu thi khi hoàn trả phải tính lãi để đảm bảo bình đẳng…”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Trong thời gian qua, Bộ Tài chính và hệ thống Hải quan đã có những biện pháp quyết liệt đấu tranh phòng chống những hiện tượng, hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm gây phiền hà sách nhiễu, tiêu cực, tham nhũng trong cán bộ công chức hải quan.  Bộ Tài chính, Tổng Cục Hải quan đã ban hành hoặc trình trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy định các chế tài xử lý kỷ luật hành chính và các chế tài bồi thường thiệt hại. Cụ thể:

a/. Chế tài xử lý kỷ luật hành chính:

Bộ Tài chính đã chỉ đạo Hải quan ban hành các quyết định như Quyết định 517/TCHQ-QĐ-TCCB ngày 17/06/2004, Quyết định 1395/TCHQ-QĐ-TCCB ngày 3/12/2004 về việc thực hiện 10 điều kỷ cương của Công chức hải quan Việt Nam; văn bản số 106/TCHQ-TCCB ngày 8/01/2003 về chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính và xử lý vi phạm, trong đó quy định cụ thể ứng với mỗi hành vi, lỗi vi phạm của công chức, từ lãnh đạo đến công chức thừa hành thì có hình thức xử lý kỷ luật tương ứng, trong đó có cả hành vi vi phạm gây phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực tham nhũng… 

Trong thực tế, thời gian quan ngành Hải quan đã xử lý nghiêm khắc như cách chức, hạ bậch lương, hạ ngạch đến buộc thôi việc, cho ra khỏi ngành đối với các cán bộ công chức có vi phạm gây phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực tham nhũng và chấn chỉnh mạnh nội bộ.

b/. Chế tài bồi thường thiệt hại:

Bộ Tài chính đã trình Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật thuế xuất khẩu nhập khẩu sửa đổi tháng 6/2005 (có hiệu lực từ 1/1/2006), trong đó quy định rõ: Nếu Hải quan nhầm lẫn thì cơ quan Hải quan phải trả lãi theo lãi suất ngân hàng trên khoản thu sai.

Trước đó, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 47/CP ngày 3/5/1997 về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra; theo đó, Ban tổ chức cán bộ Chính phủ (nay là Bộ nội vụ) đã có Thông tư số 54/1998/TT-TCCP ngày 4/6/1998 hướng dẫn thi hành một số nội dung Nghị định 47/CP, trong đó quy định công chức, viên chức nhà nước phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra khi thi hành công vụ; nguyên tắc, trình tự, thủ tục bồi hoàn thiệt hại đã được quy định cụ thể tại 2 văn bản trên. Quy định trên được áp dụng cho công chức, viên chức nhà nước nói chung, trong đó có công chức viên chức Hải quan.

Cử tri thành phố Hồ Chí Minh: “Cần phải quy định rõ hơn về tiêu chí, chuẩn mực để doanh nghiệp được xét ân hạn thuế, phù hợp với từng nhóm doanh nghiệp. Ví dụ: cần quy định rõ thế nào là “mức độ tín nhiệm cao trong chấp hành pháp luật về thuế”, cơ quan nào xác định tiêu chí này? Về thời hạn ân hạn thuế: Đề nghị chỉ ân hạn 30 ngày cho các lô hàng nhập khẩu loại hình kinh doanh. Cũng có ý kiến cho rằng việc về lâu dài nên bỏ quy định về ân hạn thuế nhằm giảm các thất thu về thuế không đáng có như: doanh nghiệp bỏ trốn, giải thể, không có khả năng trả nợ thuế trong khi hàng hoá nhập khẩu về đã tiêu thụ hết. Có ý kiến cho rằng thời gian ân hạn thuế 275 ngày là quá dài, dễ tạo điều kiện cho doanh nghiệp bỏ trốn, không nộp thuế. Khi doanh nghiệp được ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng bảo lãnh thì cũng được ân hạn thuế 30 ngày, song thời gian bảo lãnh cần dài hơn thời gian ân hạn (khi doanh nghiệp không nộp thì ngân hàng bảo lãnh phải nộp thay). Về mức thuế phải nộp để được xét ân hạn thuế: chỉ nên cho các doanh nghiệp nợ các khoản thuế trên 10 triệu đồng, còn các khoản thuế dưới 10 triệu đồng cần phải thu ngay trước khi thông quan hàng hoá vì đây là số tiền thuế nhỏ so với giá trị lô hàng và không có tính chất hỗ trợ vốn (hiện nay số nợ nhỏ này chiếm từ 80-85%).”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Các vấn đề cử tri nêu lên đã được xử lý tại khoản 2 Điều 15 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được Quốc Hội thông qua, có hiệu lực từ ngày 1/1/2006. Muốn được hưởng ân hạn thuế thì doanh nghiệp phải đảm bảo một trong hai điều kiện như sau:

- Có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian ít nhất là 365 ngày tính đến ngày đăng ký tờ khai hải quan được cơ quan hải quan xác nhận không có hành vi gian lận thương mại, trốn thuế, không còn nợ thuế quá hạn, không còn nợ tiền phạt, chấp hành tốt chế độ báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật; hoặc

- Được tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp. Trong trường hợp được bảo lãnh thì thời hạn nộp thuế thực hiện theo thời hạn bảo lãnh. Hết thời hạn bảo lãnh hoặc thời hạn nộp thuế mà đối tượng nộp thuế chưa nộp thuế thì tổ chức bảo lãnh có trách nhiệm nộp số tiền thuế và tiền phạt chậm nộp thay cho đối tượng nộp thuế.

Về các nội dung khác, Bộ Tài chính xin ghi nhận ý kiến của cử tri để nghiên cứu, xem xét khi soạn thảo Nghị định hướng dẫn Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, trình Chính phủ quyết định.

Cử tri thành phố Hồ Chí Minh: “Luật thuế XNK hiện hành quy định giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu là giá mua tại cửa khẩu theo hợp đồng, kể cả chi phí vận tải, bảo hiểm. Trong trường hợp nhập khẩu theo phương thức khác hoặc giá trên hợp đồng quá thấp so với giá mua và giá bán thực tế thì giá tính thuế sẽ do Nhà nước quy định (tức giá tối thiểu). Việc áp giá tối thiểu có tác dụng chống gian lận thương mại khá hiệu quả, tuy nhiên, cách tính này đôi khi dẫn đến lạm thu hoặc thất thu, không phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì vậy để tiến tới hội nhập WTO, Chính phủ đã ban hành Nghị định 60/2002/NĐ-CP quy định việc thực hiện áp dụng trị giá tính thuế theo Hiệp định GATT, theo đó giá tính thuế nhập khẩu về đến cửa khẩu đầu tiên của Việt Nam. Do đó việc sửa đổi quy định về giá tính thuế của Luật thuế XNK hiện hành cho phù hợp với nguyên tắc của Hiệp định GATT là cần thiết. Tuy nhiên, quá trình thực hiện việc thu thuế XNK theo Hiệp định GATT còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc: doanh nghiệp khai giá hàng nhập khẩu thấp hơn rất nhiều so với giá thực tế (ví dụ: 1 kg nho Mỹ bán trên thị trường Việt Nam hiện này giá 70.000-80.000 đồng nhưng doanh nghiệp khai giá chỉ có 0,5 USD. Hay như các loại xe gắn máy tay ga cao cấp nhập khẩu có giá bán tại Việt Nam lên đến cả 100 triệu đồng/ chiếc, nhưng doanh nghiệp nhập khẩu vẫn cứ khai giá chỉ 1000-1500 USD…). Để đấu tranh với các trường hợp gian lận này, cơ quan Hải quan phải nhờ đến Trung tâm thẩm định giá nhưng hải quan hiện nay lại chưa có chi phí trong trường hợp này. Đây là các vấn đề cần được điều chỉnh cụ thể trong Luật thuế XNK (sửa đổi).”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Để tiến tới hội nhập WTO, Chính phủ đã ban hành Nghị định 60/2002/NĐ-CP ngày 6/6/2002 quy định về việc áp dụng trị giá tính thuế theo Hiệp định trị giá GATT theo đó giá tính thuế về cơ bản được xác định theo trị giá giao dịch, tức là tổng số tiền người mua đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán trực tiếp hay gián tiếp cho người bán do nhà nhập khẩu khai báo với cơ quan Hải quan.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, một bộ phận doanh nghiệp đã lợi dụng quy định này để khai báo giá hàng nhập khẩu thấp hơn so với giá thực tế. Để khắc phục tình trạng này, tại Thông tư 118/2003/TT-BTC ngày 8/12/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định 60/2002/NĐ-CP đã quy định: Cơ quan Hải quan có quyền tham vấn đối với các trường hợp nghi ngờ trị giá khai báo của doanh nghiệp (khai thấp hơn giá thực tế) trên cơ sở các nguồn thông tin, dữ liệu giá có sẵn tại hệ thống thông tin dữ liệu gía và các nguồn thông tin khác do cơ quan Hải quan thu thập được như: thông tin từ giá chào bán trên Internet, giá bán thị trường nội địa, giá do các cơ quan thẩm định giá cung cấp… để xác minh tính trung thực, khách quan của mức giá khai báo.

Trường hợp doanh nghiệp không chứng minh được tính trung thực, khách quan của mức giá khai báo thì cơ quan Hải quan sẽ bác bỏ trị giá khai báo của doanh nghiệp và tiến hành xác định lại giá tính thuế trên cơ sở các thông tin giá tính thuế được xác định.

Đối với các trường hợp sau khi tham vấn vẫn chưa làm rõ được tính xác thực của trị giá khai báo thì cơ quan hải quan sẽ tổ chức kiểm tra sau thông quan tại trụ sở doanh nghiệp để kiểm tra sổ sách kế toán, tình hình hạch toán kế toán đối với lô hàng nhập khẩu và có kết luận về tính trung thực của mức giá khai báo.

Như vậy, việc thu thập thông tin giá từ cơ quan thẩm định giá chỉ là một trong những nguồn thông tin cơ quan Hải quan sử dụng để xác minh tính trung thực khách quan của trị giá khai báo.

Chi phí để có các dữ liệu thông tin từ các nguồn (kể cả từ trung tâm thẩm định giá) đã được bố trí trong kinh phí hoạt động ngành Hải quan.

Cử tri tỉnh An Giang: “Các nguồn thu phí, lệ phí: Đã được phân cấp cho địa phương thì các Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính không nên quy định mức trích nộp về trên (như nguồn thu phí thoát nước)”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Việc xác định tỷ lệ điều tiết nguồn thu phí, lệ phí giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương, ngoài yếu tố cơ quan thu (cơ quan Trung ương hay cơ quan địa phương) còn căn cứ vào nội dung, tính chất của từng loại phí; phạm vi, mức độ quản lý Nhà nước. 

Theo đó, có một số khoản phí, lệ phí đặc thù do cơ quan Trung ương thu nhưng có phân chia cho ngân sách địa phương hưởng toàn bộ hoặc 1 phần như: phí xăng dầu do cơ quan Trung ương thu nhưng có phân chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương; lệ phí trước bạ do cơ quan Trung ương thu nhưng để ngân sách địa phương hưởng 100%.

Hoặc, có khoản phí do cơ quan địa phương thu nhưng có điều tiết về ngân sách Trung ương một phần như: phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt (thay cho phí thoát nước trước đây).  Đối với phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt, Nhà nước quy định giao cho các công ty cấp nước thu; số tiền phí thu được, sau khi trừ chi phí cho tổ chức thu, trícht 50% đóng góp vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam do Bộ Tài nguyên môi trường quản lý để chi cho các nội dung bảo vệ môi trường trong cả nước.  Việc phân cấp nguồn thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt được quy định tại Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2003 của Chính phủ về bảo vệ môi trường đối với nước thải.

Cử tri tỉnh Quảng Trị: “Việc thu lệ phí 700.000/giấy phép hoạt động điện lực theo quy định tại thông tư 89/2003/TT-BTC ngày 17/9/2003 của Bộ Tài chính là quá cao so với mức thu nhập của nhân dân. Đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu có chính sách miễn giảm đối với các vùng khó khăn.”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Ngày 02/8/2001 Chính phủ ban hành Nghị định số 45/2001/NĐ-CP về hoạt động điện lực và sử dụng điện; theo đó, sản xuất kinh doanh điện là ngành nghề kinh doanh có điều kiện và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động. Cụ thể:

- Bộ Công nghiệp cấp giấy phép hoạt động điện lực đối với: các tổ chức hoạt động tư vấn quy hoạch, thiết kế, giám sát và các hình thức tư vấn khác đối với các dự án, công trình điện; doanh nghiệp thuộc các Tổng công ty nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động sản xuất, truyền tải, phân phối, kinh doanh và cung ứng điện; các doanh nghiệp sản xuất điện có công suất phát điện từ 10 MW trở lên và doanh nghiệp quản lý vận hành lưới truyền tải điện có điện áp từ 110 kV trở lên; các doanh nghiệp hoạt động xuất-nhập khẩu điện.

- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp giấy phép hoạt động điện lực cho các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh điện thuộc đối tượng phải cấp giấy phép còn lại.

Căn cứ Nghị định 57/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí, Bộ Tài chính có Thông tư số 89/2003/TT-BTC ngày 17/9/2003 quy định chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng lệ phí cấp giấy phép hoạt động điện lực. Theo đó, lệ phí cấp giấy phép hoạt động điện lực chỉ thu một lần đối với tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh điện được cấp giấy phép.

Theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí hiện hành thì lệ phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để hoặc tổ chức được uỷ quyền để phục vụ để thực hiện công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực đó. Do đó, về nguyên tắc không quy định miễn, giảm đối với lệ phí (kể cả lệ phí cấp giấy phép hoạt động điện lực).

Cử tri thành phố Hồ Chí Minh: “Có quy định chi tiết về phí môi giới trong trường hợp người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài để hạn chế việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và bảo vệ quyền lợi của người lao động.”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Theo Thông tư liên tịch số 107/2003/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 07/11/2003 của liên tịch Bộ Tài chính - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện chế độ tài chính đối với người lao động và doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo qui định tại Nghị Định số 81/2003/NĐ-CP  ngày 17/7/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ Luật Lao động về người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài thì “Phí môi giới trong xuất khẩu lao động (phí tư vấn khai thác hợp đồng)” được thực hiện như sau:

- Doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động được phép chi hoa hồng môi giới từ nguồn thu phí dịch vụ để có hợp đồng cung ứng lao động theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính về việc chi hoa hồng trong giao dịch, môi giới xuất khẩu và khấu trừ thuế liên quan đến việc chi hoa hồng môi giới.

- Đối với một số thị trường, người lao động chịu một phần chi phí môi giới để hỗ trợ doanh nghiệp trong việc khai thác hợp đồng, Bộ Tài chính cùng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội sẽ căn cứ vào đặc điểm của từng thị trường và tình hình thực tế từng thời kỳ để quy định mức phí môi giới phù hợp. Việc thu phí môi giới của người lao động (nếu có) phải được ghi rõ trong hợp đồng. Doanh nghiệp có trách nhiệm cấp biên lai thu tiền cho người lao động, có chứng từ chuyển tiền cho đối tác nước ngoài và mở sổ sách theo dõi thu chi tiền phí môi giới của người lao động. Phí môi giới xuất khẩu lao động do người lao động nộp cho công ty môi giới nước ngoài là khoản thu hộ, chi hộ của doanh nghiệp xuất khẩu lao động và không phải nộp thuế tại Việt Nam.

- Trường hợp người lao động phải về nước trước thời hạn vì lý do bất khả kháng (thiên tai, chiến tranh, doanh nghiệp bị phá sản…) hoặc không phải do lỗi của người lao động, thì doanh nghiệp phải có trách nhiệm yêu cầu với phía đối tác nước ngoài hoàn trả lại một phần phí môi giới cho người lao động theo nguyên tắc: phí môi giới phải nộp tính theo số tháng thực tế làm việc ở nước ngoài. Nếu không thể đòi được của đối tác thì doanh nghiệp cần có biện pháp hỗ trợ cho người lao động đối với từng trường hợp cụ thể. Quy định này không bắt buộc trong trường hợp người lao động đã thực hiện được 2/3 thời gian hợp đồng đã ký với doanh nghiệp.

Theo đó, đối với các thị trường mà Bộ Tài chính và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã có văn bản hướng dẫn cụ thể về mức thu phí môi giới [như thị trường Hàn Quốc: liên Bộ đã thống nhất hướng dẫn để các công ty cung ứng dịch vụ nhân lực Việt Nam chi phí môi giới, tư vấn, khai thác hợp đồng, dịch vụ việc làm cho phía Hàn Quốc với mức tối đa 200 USD/người lao động/hợp đồng 2 năm. Trong đó: công ty chi 25% (tối đa 50 USD) và được hạch toán và chi phí kinh doanh, người lao động chi 75% (tối đa 150 USD)] thì vẫn tiếp tục thực hiện theo văn bản hướng dẫn cụ thể đó cho đến khi có văn bản mới thay thế. Đối với các thị trường khác, hiện tại Bộ Tài chính đang phối hợp cùng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội căn cứ vào đặc điểm của từng thị trường và tình hình thực tế từng thời kỳ để quy định mức phí môi giới phù hợp.

Cử tri thành phố Hồ Chí Minh:Cần nới lỏng quy định về chi phí cho hoạt động đấu giá bán cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hoá. Hiện nay, theo quy định tại Thông tư 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 187/2004/NĐ-CP chi phí phục vụ cho hoạt động đấu giá bán cổ phần không vượt quá 10% tổng chi phí cổ phần hoá, tức 40 triệu đồng. Trên thực tế mức phí này không đủ để thực hiện giới thiệu, quảng bá, tiếp thị đợt phát hành đến đông đảo công chúng đầu tư trong nước và ngoài nước. Việc giới thiệu về doanh nghiệp và về phát hành cổ phiếu ra công chúng có vai trò rất quan trọng, quyết định mức độ thành công của đợt phát hành. Đề nghị của các tổ chức tài chính trung gian là quy định mức phí cho đợt phát hành để khuyến khích các doanh nghiệp phát hành, khuyến khích các tổ chức trung gian thực hiện tốt vai trò của mình trong quá trình thực hiện chính sách cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Điểm 8 Phần V Thông tư 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004 của Bộ Tài chính đã quy định mức khống chế tối đa chi phí phục vụ cho hoạt động đấu giá bán cổ phần là 10% tổng chi phí cổ phần hoá.

Điểm 2.2 Phần VI Thông tư 126 quy định tổng mức chi phí cổ phần hoá tối đa được xác định theo giá trị doanh nghiệp trên sổ kế toán như sau:

- Không quá 200 triệu đối với doanh nghiệp có giá trị dưới 30 tỷ đồng;

- Không quá 300 triệu đối với doanh nghiệp có giá trị từ 30 tỷ đến 50 tỷ đồng;

- Không quá 400 triệu đối với doanh nghiệp có giá trị trên 50 tỷ đồng;

Tương ứng với tổng mức chi phí cổ phần hoá, mức khống chế tối đa chi phí phục vụ hoạt động đấu giá cổ phần là 20 triệu, 30 triệu hay 40 triệu, tuỳ thuộc vào giá trị doanh nghiệp trên sổ kế toán.

Tuy nhiên, Điểm 2.2 Phần VI Thông tư 126 cũng quy định thêm “Trường hợp cổ phần hoá những doanh nghiệp có quy mô lớn, phức tạp, phát sinh chi phí cần thiết vượt mức khống chế tối đa; cơ quan quyết định giá trị doanh nghiệp chủ động xem xét, quyết định và thông báo cho Bộ Tài chính”.

Riêng chi phí phục vụ cho việc bán cổ phần lần đầu, Bộ Tài chính đang nghiên cứu sửa đổi theo hướng: Chi phí cho việc tổ chức bán đấu giá cổ phần do cơ quan quyết định cổ phần hoá quyết định.  Để khuyến khích các tổ chức đáu giá trong việc tíhc cực quảng cáo, giúp cho việc thực hiện bán đấu giá cổ phần lần đầu thành công, cho phép sử dụng một tỷ lệ nhất định tiền chênh lệch tăng do bán đấu giá cổ phần để chi thêm cho các tổ chức thực hiện bán đấu giá cổ phần đối với những trường hợp bán cổ phần thành công.

Cử tri tỉnh Thái Nguyên: “Đề nghị Bộ Tài chính khẩn trương có hướng dẫn về thu lệ phí địa chính. Trước đây thu theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (CNQSDĐ) và mỗi hộ chỉ có 01 giấy CNQSDĐ, nay có hộ có tới vài chục giấy thì thu như thế nào? mức thu là bao nhiêu?”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Theo Thông tư số 93/2002/TT-BTC ngày 21/10/2002 của Bộ Tài chính quy định chế độ thu, nộp và  quản lý sử dụng lệ phí địa chính thì mức thu lệ phí địa chính quy định như sau:

TT

CÔNG VIỆC

ĐỊA CHÍNH

ĐƠN VỊ TÍNH

MỨC THU

Cá nhân, hộ gia đình

Tổ chức

Tại các quận thuộc thành phố trực thuộc trung ương; phường nội thành thuộc  thành phố hoặc thị xã trực thuộc tỉnh

Khu vực khác

1

Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và  cấp giấy hợp thức hoá quyền sử dụng đất

đồng/giấy

25.000

10.000

100.000

2

Chứng nhận đăng ký biến động về đất đai, bao gồm: chứng nhận thay đổi chủ sử dụng đất, thay đổi hình thể, diện tích thửa đất và thay đổi mục đích sử dụng đất

đồng/lần

15.000

5.000

20.000

3

Trích lục bản đồ hoặc các văn bản cần thiết trong hồ sơ địa chính:

đồng/văn          bản

 

 

 

 

- Trích lục văn bản

 

10.000

5.000

10.000

 

- Trích lục bản đồ

 

10.000

10.000

10.000

4

Xác nhận tính pháp lý của các giấy tờ nhà đất

đồng/lần

20.000

10.000

20.000

Trường hợp pháp luật về đất đai cho phép mỗi hộ có nhiều giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đối tượng được cấp phải nộp lệ phí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho từng giấy theo mức thu quy định tại điểm 1 nêu trên.

Cử tri tỉnh Yên Bái: “Đề nghị Chính phủ, các Bộ ngành trung ương sớm có Quyết định chính thức và hướng dẫn về mục chi ngân sách Nhà nước cho hoạt động sự nghiệp môi trường để bố trí vào kế hoạch năm 2006 như đã đề ra trong Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 41/NQ- TW của Bộ chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Theo Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị, Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt "Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng", Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 2/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt "Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020", đã xác định chi hoạt động bảo vệ môi trường từ NSNN bao gồm tất cả các lĩnh vực chi (chi đầu tư phát triển, các lĩnh vực chi thường xuyên). Để thống nhất xác định phạm vi chi NSNN cho hoạt động bảo vệ môi trường, phù hợp với phương thức xác định tỷ lệ chi thực hiện nhiệm vụ này trong tổng chi NSNN của các lĩnh vực chi khác đã được quyết định (chi sự nghiệp giáo dục - đào tạo, chi sự nghiệp khoa học - công nghệ, chi sự nghiệp văn hoá,...); tại Chỉ thị số 18/2005/CT-TTg ngày 31/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển KT-XH và dự toán NSNN năm 2006 đã xác định "Bảo đảm bố trí chi ngân sách nhà nước năm 2006 bao gồm cả chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên và chi cải cách tiền lương đối với lĩnh vực môi trường trên 1% tổng chi ngân sách nhà nước".

Theo quy định của mục lục NSNN hiện hành, việc hạch toán các nội dung chi NSNN cho hoạt động bảo vệ môi trường còn phân tán, nằm rải rác ở các loại, khoản khác nhau. Vì vậy để đảm bảo cho việc phản ánh tập trung nội dung chi hoạt động bảo vệ môi trường theo yêu cầu tại các văn bản nêu trên, phục vụ cho công tác lập, điều hành và quyết toán NSNN, Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ Tài nguyên và môi trường nghiên cứu, sửa đổi mục lục NSNN hạch toán nội dung chi hoạt động bảo vệ môi trường theo hướng bổ sung thêm LOạI mới “Loại hoạt động bảo vệ môi trường” và quy định rõ các khoản tương ứng với các nội dung chi hoạt động bảo vệ môi trường để phản ánh tập trung nhiệm vụ chi hoạt động bảo vệ môi trường (bao gồm cả 4 cấp ngân sách; lĩnh vực chi đầu tư XDCB và các lĩnh vực chi thường xuyên; phạm vi nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài). Dự kiến sẽ ban hành trong năm 2005, thời gian thực hiện dự kiến từ 01/01/2006.

Cử tri tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: “Sau 30 năm đất nước thống nhất, nhưng tình trạng bao cấp vẫn chưa được xoá bỏ triệt để, tình trạng bao cấp nhà ở, xe ô tô con vẫn còn, gây lãng phí tốn kém. Đề nghị Quốc hội sớm nghiên cứu để đưa tất cả các khoản này vào lương”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Qua 20 năm đổi mới, nền kinh tế xã hội nước ta đã đạt được những tiến bộ vượt bậc; nhiều chính sách kinh tế vĩ mô trong đó có chính sách tiền lương đã đã được cải cách. Đặc biệt, với đợt cải cách tiền lương năm 1993, chúng ta đã cơ bản hoàn thành tiền tệ hoá tiền lương, xoá bỏ các khoản bao cấp bằng hiện vật tồn tại trong nhiều năm.

Trong quá trình nghiên cứu cải cách chính sách tiền lương những năm qua, vấn đề nhà ở, xe ô tô con phục vụ công tác đã được nghiên cứu theo hướng đưa vào lương. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong chế độ tiền lương hiện hành cũng đã tính đến yếu tố nhà ở, song do mức lương tối thiểu còn thấp nên số tiền chưa nhiều. Trong thực tế, nhiều nơi, trong phạm vi chính sách pháp luật của Nhà nước, đã có chính sách để giúp cán bộ, công chức khắc phục khó khăn về nhà ở, trong đó có chế độ nhà công vụ bố trí cho cán bộ, công chức khi phải luân chuyển, điều động từ nơi này sang nơi khác.

Riêng đối với tiêu chuẩn trang bị ô tô con, về thực chất đây là chế độ trang bị phương tiện phục vụ công vụ; chi phí xe thực chất là chi phí để thực hiện công việc. Nếu đặt vấn đề tiền tệ hoá đưa vào lương sẽ không phù hợp với tính chất phục vụ công vụ nói trên. Để quản lý tốt phương tiện đi lại, sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ, trong Dự án Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí gửi lấy ý kiến nhân dân tại Khoản 4 Điều 15 đã đưa ra các phương thức sau:

1.      Trang bị phương tiện đi lại theo chức danh, chức vụ;

2.      Thuê phương tiện đi lại của doanh nghiệp dịch vụ để phục vụ công việc;

3.      Khoán kinh phí cho người có tiêu chuẩn, chế độ sử dụng phương tiện đi lại.

Khi Dự án Luật được Quốc hội thông qua, Chính phủ sẽ nghiên cứu để tổ chức thực hiện.

Cử tri tỉnh An Giang: “Luật Ngân sách Nhà nước quy định các nguồn thu phải phản ánh vào ngân sách, nhưng các Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính cho phép nguồn thu để lại chi, không ghi ngân sách. Như vậy cần xác định lại, vì các Đoàn kiểm toán và thanh tra tài chính luôn xử lý, kết luận theo Luật Ngân sách Nhà nước, gây khó khăn cho địa phương”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Theo quy định tại Điều 6 Luật Ngân sách nhà nước: Các khoản thu, chi của ngân sách nhà nước phải được hạch toán kế toán, quyết toán đầy đủ, kịp thời, đúng chế độ.

Như vậy, phần thu không phải nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật thì không kế toán, quyết toán vào ngân sách nhà nước. Thí dụ, đối với các khoản phí, lệ phí: tiết b khoản 1, Điều 17 của Pháp lệnh Phí, lệ phí năm 2001 quy định: Trường hợp tổ chức thu không được ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí cho hoạt động thu phí thì tổ chức thu được để lại một phần trong số tiền phí thu được để trang trải chi phí cho việc thu phí, phần còn lại phải nộp vào ngân sách nhà nước. Khoản 1 Điều 19 của Pháp lệnh Phí, lệ phí quy định thêm: Mọi khoản lệ phí thu được đều thuộc ngân sách nhà nước. Tổ chức thu lệ phí phải nộp đầy đủ, kịp thời số lệ phí thu được vào ngân sách nhà nước. Trong trường hợp uỷ quyền thu thì tổ chức được uỷ quyền thu lệ phí được để lại một phần trong số lệ phí thu được để trang trải chi phí cho việc thu lệ phí, phần còn lại phải nộp vào ngân sách nhà nước.

Vì vậy, trong Thông tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/7/2002 về hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật về phí, lệ phí, tại tiết b điểm 1 Mục C quy định: Trường hợp tổ chức thu chưa được ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí cho hoạt động thu phí, lệ phí hoặc tổ chức thu được uỷ quyền thu phí, lệ phí thì tổ chức thu được để lại một phần trong số tiền phí, lệ phí thu được để trang trải chi phí cho việc thu phí, lệ phí; phần tiền phí, lệ phí còn lại phải nộp vào ngân sách nhà nước.

Theo các quy định trên, thì số phí, lệ phí được trích trên tổng số thu phí, lệ phí để đơn vị thu trang trải chi phí thu theo chế độ quy định, không thuộc nguồn thu của ngân sách nhà nước, và vì vậy không phải kế toán quyết toán vào ngân sách nhà nước. Quy định như trên để đảm bảo quản lý chặt chẽ phần phải nộp ngân sách nhà nước và chủ động sử dụng hiệu quả phần để lại đơn vị theo chế độ quy định.

Vì vậy, các đơn vị của tỉnh cần phối hợp với các đoàn kiểm toán, thanh tra để xác định nội dung, tính chất của từng khoản thu để xác định có phải là khoản thu của ngân sách nhà nước hay không phải là khoản thu của ngân sách nhà nước; trên cơ sở đó mới thực hiện phản ánh vào ngân sách nhà nước những khoản thu của ngân sách nhà nước theo đúng quy định.

Cử tri thành phố Hồ Chí Minh: “Cử tri đề nghị Bộ Tài chính có thể phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc thêm nhiều kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Trước đây trong những năm 1991 đến năm 1994 do ngân sách khó khăn, để huy động vốn ngắn hạn đáp ứng cho các nhu cầu chi của NSNN khi nguồn thu chưa tập trung kịp, KBNN có thực hiện bán lẻ các loại tín phiếu kỳ hạn ngắn (3 tháng, 6 tháng và 9 tháng). Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, hình thức huy động vốn này đã bộc lộ một số hạn chế như: chi phí trả lãi cao, thời gian sử dụng vốn ngắn; trong khi NSNN cần huy động khối lượng vốn lớn và thời gian sử dụng vốn dài. Mặt khác, tín phiếu kho bạc (thời hạn dưới 1 năm) là công cụ trên thị trường tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước quản lý nhằm phục vụ cho việc thực hiện chính sách tiền tệ. Vì vậy, hiện nay để tiết kiệm chi trả lãi và đảm bảo thời gian cũng như khối lượng vốn cần huy động của Ngân sách Nhà nước và phù hợp với chính sách tiền tệ. Việc bán lẻ các loại tín phiếu kỳ hạn ngắn  hạn qua KBNN  đã được chuyển sang đấu thầu thông qua Ngân hàng Nhà nước. Các ngân hàng thương mại sau khi tham gia đấu thầu tín phiếu Kho bạc cũng sẽ tiến hành huy động vốn ngắn hạn trên thị trường với các kỳ hạn tương ứng; vì vậy, người dân cũng có thể đầu tư vốn ngắn hạn thông qua các ngân hàng thương mại này.

Riêng đối với các loại trái phiếu để huy động cho đầu tư và phát triển, đặc biệt là các loại trái phiếu giao thông-thuỷ lợi (có thời hạn trên 1 năm), hiện nay vẫn đang được bán lẻ qua hệ thống KBNN và người dân có thể mua trái phiếu trực tiếp tại các trụ sở KBNN (hoặc là các điểm bán lẻ trái phiếu của KBNN).

Cử tri tỉnh Kiên Giang: “Một số văn bản hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình hiện nay, nhất là các văn bản quy định về chế độ chi tiêu cho hoạt động khoa học và công nghệ như Thông tư liên tịch số 45/TTLT/BTC-BKHCN-MT ngày 18/6/2001 của Bộ Tài chính và Bộ Khoa học Công nghệ- Môi trường”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Ngày 18/6/2001 Liên Bộ Tài chính - Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) ban hành Thông tư liên tịch số 45/2001/TTLT/BTC-BKHCNMT hướng dẫn một số chế độ chi tiêu đối với các nhiệm vụ khoa học và công nghệ.

Nhìn chung, những quy định về chế độ chi tiêu đó đã tạo điều kiện thông thoáng hơn, gắn với các sản phẩm nghiên cứu KH&CN và bước đầu tương đối phù hợp đối với các hoạt động KH&CN, như:  Đối tượng và phạm vi áp dụng đã được mở rộng cho tất cả các đề tài, dự án cấp bộ, ngành, tỉnh, thành phố, cấp nhà nước, đáp ứng kịp thời những bức xúc của các hoạt động KH&CN, một số mức chi đã được điều chỉnh cho phù hợp với thực tế hơn,  quy định các khung mức chi có tính chất khoán cho các sản phẩm khoa học đó là các chuyên đề nghiên cứu (thay cho việc tính mức chi theo trang viết như trước đây).

Tuy nhiên, trong thời gian tới để cải cách toàn diện các thủ tục hành chính, đồng thời thực hiện chủ trương giao quyền tự chủ về tài chính và tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị, một số chế độ chi tiêu tài chính đối với lĩnh vực hoạt động KH&CN được quy định tại Thông tư liên tịch 45/2001/TTLT/BTC-BKHCNMT nêu trên cần được sửa đổi bổ sung cho phù hợp. Hiện tại, Bộ Tài chính đang phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ nghiên cứu sửa đổi Thông tư liên tịch số 45/2001/TTLT/BTC-BKHCNMT theo hướng:

- Điều chỉnh tăng một số mức chi không còn phù hợp như: mức chi về nhận xét đánh giá của các chuyên gia, mức chi về phản biện của các nhà khoa học khi tham gia phản biện.

- Thay đổi căn bản phương pháp xác định mức chi và phương thức chi trả thù lao nghiên cứu cho các nhà khoa học theo hướng học tập kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới, như:

+ Xây dựng mức tiền công của các nhà khoa học trong các đề tài, dự án KH&CN và thực hiện phương thức chi trả thù lao cho các nhà khoa học theo hao phí sức lao động cần thiết của các nhà khoa học được quy theo tháng.

+ Xây dựng mức chi thù lao đảm bảo bù đắp đủ hao phí lao động cần thiết cho các nhà khoa học và có tích lũy.

Các định mức này được sử dụng để xây dựng dự toán kinh phí của các đề tài, dự án KH&CN; Các mức chi được quy định theo khung, mức chi cụ thể khi triển khai thực hiện thì giao quyền tự chủ cho chủ nhiệm đề tài, dự án được quyền quyết định các mức chi cao hơn hoặc thấp hơn mức chi nhà nước quy định, tuỳ theo hiệu quả và chất lượng nghiên cứu của từng nhà khoa học.

Do yêu cầu sửa đổi phải thay đổi căn bản về phương pháp xác định định mức chi, phương thức chi trả thù lao cho các nhà khoa học ... Vì vậy, Liên Bộ Tài chính và Bộ Khoa học và Công nghệ đang khẩn trương nghiên cứu để có thể ban hành Thông tư liên tịch mới thay thế Thông tư liên tịch số 45/2001/TTLT/BTC-BKHCNMT trong Quý I năm 2006.

Cử tri tỉnh Quảng Ninh:Đề nghị Chính phủ có cơ chế chính sách đối với khu vực cửa khẩu biên giới (tiếp tục cho thực hiện Quyết định số 53 của Thủ tướng Chính phủ để lại một phần thu thuế xuất nhập khẩu cho địa phương) để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở các điểm đầu mối cửa khẩu tạo điều kiện thuận lợi để đưa nhân dân ra khu vực biên giới kết hợp giữa phát triển kinh tế với quốc phòng và bảo vệ tổ quốc vì hiện nay một số khu vực giáp biên giới (khu vực giáp ranh đồn 18, khu vực cột mốc số 16 xã Quảng Đức, huyện Hải Hà) dân cư thưa, dân bỏ hoang nhiều trong khi phía Trung Quốc thường sang khai thác lâm sản và xâm canh, hiện có một số hộ dân Trung Quốc sang trồng lúa nhưng không đủ người để bảo vệ; khu vực kè bờ mốc số 13, 14 (thuộc huyện Hải Hà) nếu không có sự đầu tư xây dựng kè thì sẽ mất đất do bị nắn dòng chảy (phía Trung Quốc đã xây kè nắn dòng chảy sang phía ta)”.

Bộ Tài Chính trả lời:

Để phù hợp với quy định của Luật Ngân sách nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 185/2003/QĐ-TTg ngày 10/9/2003 quy định từ năm ngân sách 2004, bãi bỏ các quyết định, văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương theo các hình thức: Cấp lại, đầu tư trở lại toàn bộ hoặc một phần từ các nguồn thu phát sinh trên địa bàn hoặc các khoản thu các doanh nghiệp nộp ngân sách nhà nước cho Bộ, cơ quan Trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các Tổng công ty nhà nước.

Đối với nguồn vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở các điểm đầu mối cửa khẩu nhằm tạo điều kiện thuận lợi để đưa dân ra các khu vực biên giới kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng và bảo vệ tổ quốc; đầu tư xây dựng kè khu vực bờ mốc số 13, 14 thuộc huyện Hải Hà; đề nghị tỉnh chủ động sử dụng ngân sách địa phương và nguồn ngân sách Trung ương hỗ trợ có mục tiêu để đầu tư cơ sở hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu, hỗ trợ đầu tư thực hiện Quyết định số 120/2003/QĐ-TTg ngày 11/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược phát triển kinh tế xã hội tuyến biên giới Việt Trung đến năm 2010 để thực hiện.

Cử tri tỉnh Thanh Hoá: “Đề nghị Chính phủ điều chỉnh lại thuế xuất khẩu đối với mặt hàng quặng qua chế biến cho thích hợp; đồng thời xác định tiêu chí cụ thể để phân loại quặng thô, quặng sơ chế, quặng tinh (hiện nay việc phân biệt giữa quặng thô, quặng chế biến còn gặp nhiều khó khăn vương mắc)”.

Bộ Tài Chính trả lời:

- Về việc điều chỉnh lại thuế xuất khẩu đối với mặt hàng quặng qua chế biến: Hiện nay, biểu thuế xuất khẩu hiện hành đang quy định mức thuế suất thuế xuất khẩu thấp là 2% hoặc 5% đối với các mặt hàng quặng đó qua chế biến như đồng, nickel, chì, thiếc, kẽm... ở dạng thỏi, thanh và hình.

Việc quy định mức thuế suất thuế xuất khẩu thấp đối với các mặt hàng quặng đã qua chế biến là do trên thực tế hiện nay, trình độ công nghệ chế biến quặng của nước ta thấp, đồng thời cũng nhằm góp phần khuyến khích các doanh nghiệp chế biến quặng trong nước xuất khẩu.

- Việc xác định tiêu chí cụ thể để phân loại quặng thô, quặng sơ chế, quặng tinh không thuộc chức năng của Bộ Tài chính mà thuộc chức năng của Bộ Công nghiệp. Bộ Tài chính có nhiệm vụ phối hợp tham gia trong quá trình xây dựng tiêu chí phân loại.

  • VietNamNet

Quý vị độc giả hài lòng hay chưa với nội dung trả lời của Bộ Tài chính?

,
Gửi cho bạn bè In tin này
Ý kiến của bạn
Ý kiến bạn đọc
,
,
,
Quảng cáo
,
,
,