(VietNamNet) - Chúng tôi xin giới thiệu toàn văn báo cáo tình hình giáo dục do Bộ trưởng GD-ĐT thay mặt Chính phủ trình bày trước Quốc hội sáng nay, 15/11. Mời quý vị tham gia ý kiến.
|
Bộ trưởng Nguyễn Minh Hiển đang báo cáo trước Quốc hội. |
Trong những năm qua, nền giáo dục nước ta đã có bước phát triển mới về quy mô và các điều kiện bảo đảm chất lượng, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, trong giáo dục cũng bộc lộ những bất cập, yếu kém, khuyết điểm, gây lo lắng, bức xúc trong nhân dân. Ngày 9/3/2004, tại Công văn số 479/UBTVQH11, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã yêu cầu “Chính phủ chuẩn bị báo cáo với Quốc hội về tình hình giáo dục, trong đó tập trung đánh giá tình hình phát triển giáo dục về số lượng, chất lượng; những thành tựu, tồn tại và nguyên nhân; những chủ trương, giải pháp phát triển sự nghiệp giáo dục phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; những kiến nghị với Quốc hội”.
Để chuẩn bị Báo cáo này, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo xây dựng Báo cáo về tình hình giáo dục do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo làm Trưởng ban, với các thành viên là đại diện của một số bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương. Tham gia đánh giá và xây dựng Báo cáo có 64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các bộ, ban, ngành khác có liên quan, một số trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và một số doanh nghiệp. Từ tháng 5 đến tháng 9-2004, trên cơ sở tổng kết, đánh giá, điều tra khảo sát bổ sung về tình hình giáo dục, Ban chỉ đạo đã tổ chức các hội nghị, hội thảo, lấy ý kiến rộng rãi về các nội dung của Báo cáo. Thủ tướng và Phó Thủ tướng Chính phủ đã có một số buổi làm việc trực tiếp với các nhà giáo, nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam để nghe các ý kiến đóng góp. Hội đồng quốc gia giáo dục, Hội đồng chính sách khoa học và công nghệ quốc gia và một số tổ chức khoa học, nghề nghiệp khác cũng đã đóng góp ý kiến xây dựng Báo cáo. Tại phiên họp thường kỳ tháng 8 và tháng 9 năm 2004, Chính phủ đã thảo luận và cho ý kiến để hoàn chỉnh Báo cáo trình Quốc hội. Trong tháng 9-2004, Chính phủ đã báo cáo Ủy ban Văn hóa, Giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Báo cáo của Chính phủ về tình hình giáo dục được xây dựng dựa trên một số nguyên tắc và cách tiếp cận như sau :
- Căn cứ chủ yếu để đánh giá tình hình giáo dục là những quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ đặt ra cho giáo dục trong các văn kiện của Đảng và các nghị quyết, quyết định của Nhà nước.
- Đánh giá một cách khách quan, toàn diện, chỉ rõ những thành tựu cũng như những bất cập, yếu kém, khuyết điểm trên cả 3 mặt: quy mô, chất lượng và các điều kiện để phát triển giáo dục với các tiêu chí cụ thể.
- Đánh giá theo quan điểm lịch sử cụ thể, có sự so sánh giữa kết quả đạt được với kết quả các giai đoạn trước, với yêu cầu của đất nước trong giai đoạn hiện nay, với một số nước trong khu vực và trên thế giới. Các số liệu, nhận định và đánh giá chủ yếu tập trung vào giai đoạn từ 1998 tới nay.
Chính phủ nhận thức đây là trách nhiệm và là cơ hội để Chính phủ báo cáo trước Quốc hội và nhân dân cả nước về tình hình giáo dục, làm rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành, đề ra các giải pháp khả thi, có hiệu quả nhằm phát huy các thành tựu, khắc phục các bất cập, yếu kém, khuyết điểm, sớm giải quyết những vấn đề bức xúc và tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện của nền giáo dục nước nhà.
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
I. ĐỊNH HƯỚNG VÀ CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
1. Các tư tưởng chỉ đạo, chủ trương và nhiệm vụ phát triển giáo dục trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đã được xác định trong các văn kiện của Đảng:
- Về mục tiêu giáo dục: Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có lý tưởng, đạo đức, có tính tổ chức và kỷ luật, có ý thức cộng đồng và tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức hiện đại, có tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp và có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Về quan điểm chỉ đạo: Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Phát triển giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh.
- Các nhiệm vụ trọng tâm là: Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục; phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn trên cơ sở đảm bảo chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với sử dụng; thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục; đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và xây dựng xã hội học tập.
2. Quốc hội khoá X đã thông qua Luật Giáo dục, Nghị quyết 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và Nghị quyết 41/2000/QH10 về thực hiện phổ cập trung học cơ sở (THCS) với mục tiêu là :
- Đổi mới chương trình, sách giáo khoa (SGK) và phương pháp giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH đất nước, phù hợp với thực tế Việt Nam, tiếp cận trình độ các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Vào năm 2010 tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn quốc gia về phổ cập THCS.
3. Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và các chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 9 và các nghị quyết của Trung ương đã cụ thể hóa các chủ trương của Đảng và Quốc hội về phát triển giáo dục thành các nhiệm vụ, giải pháp và nêu một số chỉ tiêu cụ thể để tổ chức thực hiện (xin xem Phụ lục 1).
II. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CÁC CẤP HỌC, BẬC HỌC
1. Giáo dục mầm non
Bước đầu khôi phục và phát triển giáo dục mầm non sau một thời gian dài gặp khó khăn ở nhiều địa phương. Số xã “trắng” về cơ sở giáo dục mầm non giảm rõ rệt. Năm học 2003-2004 đã có gần 2,6 triệu trẻ em theo học ở hơn 10.000 cơ sở giáo dục mầm non, số trẻ 5 tuổi học mẫu giáo chiếm 90% số trẻ trong độ tuổi. Tuy vậy, tỷ lệ trẻ ra lớp mẫu giáo ở các vùng khó khăn còn thấp, như ở đồng bằng sông Cửu Long mới đạt 42,7%.
Chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non có tiến bộ, song còn thấp và chưa đồng đều giữa các vùng. Một số nơi đã đưa việc dạy chữ vào lớp mẫu giáo 5 tuổi là không phù hợp với khả năng tiếp thu của trẻ.
Quyết định 161/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chế độ, chính sách hỗ trợ giáo viên và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đối với giáo dục mầm non ở các vùng khó khăn. Trở ngại lớn nhất hiện nay là, đội ngũ giáo viên mầm non còn thiếu so với định mức, nhiều giáo viên chưa đạt chuẩn; phòng học và đồ dùng dạy học còn rất thiếu thốn.
2. Giáo dục phổ thông
Trong 5 năm qua, số lượng học sinh ở bậc trung học tiếp tục tăng, ở bậc tiểu học giảm dần và đi vào ổn định. Tổng số học sinh phổ thông năm học 2003-2004 là 17,6 triệu (xin xem Phụ lục 2). Đáng chú ý là tốc độ tăng số lượng học sinh ở miền núi, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cao hơn các vùng khác, thể hiện những cố gắng khắc phục tình trạng chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền.
Số lượng trường phổ thông tăng mạnh ở tất cả các cấp, bậc học và ở hầu hết các vùng, miền (xin xem Phụ lục 3), ở các vùng khó khăn đang triển khai tích cực việc xóa phòng học tranh tre và kiên cố hóa trường, lớp. Công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS chuyển biến còn chậm.
|
Bộ trưởng Nguyễn Minh Hiển báo cáo trước Quốc hội. |
Khối lượng kiến thức cơ bản của học sinh phổ thông hiện nay lớn hơn và rộng hơn so với trước đây, nhất là về các môn khoa học tự nhiên, toán, tin học, ngoại ngữ. Chương trình ở một số môn học đã tiếp cận trình độ tiên tiến trong khu vực. Học sinh Việt Nam đi du học đều được vào thẳng các cấp học tương đương, phần lớn lưu học sinh đều học tốt. Việc đào tạo học sinh giỏi có nhiều thành tích và được các nước đánh giá cao; nhiều học sinh Việt Nam đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế. Tuy nhiên, kiến thức xã hội, kỹ năng thực hành và vận dụng kiến thức, tính linh hoạt, độc lập và sáng tạo của đa số học sinh còn yếu. Có sự chênh lệch khá rõ về trình độ học sinh giữa các vùng, miền. Học sinh phổ thông, nhất là ở thành phố, phải học tập căng thẳng, ngay từ bậc tiểu học do phải chịu nhiều áp lực của các kỳ thi, đặc biệt là kỳ thi tuyển sinh vào đại học (ĐH). Đa số học sinh có cố gắng chăm chỉ học tập và rèn luyện, song vẫn còn một bộ phận, nhất là học sinh THPT, còn có thái độ thiếu trung thực trong học tập; một số rơi vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật.
Số lượng giáo viên và tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn tăng đáng kể trong 5 năm qua (xin xem Phụ lục 4). Tuy nhiên, đội ngũ giáo viên phổ thông hiện vẫn ở trong tình trạng “vừa thiếu, vừa thừa”; thiếu giáo viên THPT, THCS ở các vùng khó khăn, thiếu giáo viên âm nhạc, mỹ thuật, thể dục, công nghệ, tin học...và thiếu cán bộ về thiết bị, hướng dẫn thực hành, phụ trách thư viện. Ở một số tỉnh miền núi và miền Tây Nam Bộ còn một tỷ lệ khá cao giáo viên tiểu học lớn tuổi có trình độ thấp so với yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Đa số giáo viên chưa tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Một bộ phận giáo viên còn thiếu gương mẫu, thậm chí sa sút về đạo đức nghề nghiệp.
Cơ sở vật chất đã được tăng cường so với trước. Trong vòng 3 năm qua đã có thêm 40.000 phòng học, trong đó tỷ lệ phòng học cấp 4 và kiên cố đã tăng từ 84,3% lên 89,3%. Sách cho thư viện và thiết bị dạy học trong trường phổ thông đã được bổ sung đáng kể. Tuy vậy, phần lớn các trường hiện nay chưa có phòng bảo quản thiết bị, phòng thực hành, phòng thí nghiệm, nhất là ở miền núi và nông thôn. Việc thực hiện học 2 buổi/ngày ở phổ thông, trước hết ở tiểu học còn chậm do thiếu phòng học, giáo viên và kinh phí trả lương cho giáo viên. Việc xây dựng trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia còn chậm và gặp nhiều khó khăn, thiếu phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm và đặc biệt là thiếu diện tích đất.
Thực hiện Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội, chương trình tiểu học và THCS đã chính thức được ban hành; SGK mới đã được triển khai đại trà ở 6 khối lớp: lớp 1, 2, 3 và lớp 6, 7, 8 trên toàn quốc đúng mục tiêu và tiến độ đã đề ra. SGK mới đã tiếp cận trình độ các nước tiên tiến trong khu vực, được đa số giáo viên và học sinh chấp nhận, bước đầu góp phần thay đổi cách dạy, cách học, cách đánh giá trong nhà trường. Tuy nhiên, có những phần trong một số cuốn SGK mới ở tiểu học và THCS còn nặng và khó, có chỗ còn sai sót. Bên cạnh đó, cần rút kinh nghiệm về quy trình tổ chức và cách huy động các nhà giáo, nhà khoa học tham gia vào các khâu biên soạn, thẩm định chương trình, SGK. Việc chuẩn bị điều kiện triển khai đại trà còn thiếu đồng bộ giữa đổi mới chương trình, SGK, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và đặc biệt là bồi dưỡng giáo viên. Ở THPT, việc thí điểm phân ban chỉ mới tiến hành được một năm, song còn có ý kiến đề nghị xem xét lại cách tổ chức phân ban để bảo đảm mục đích và hiệu quả.
3. Giáo dục nghề nghiệp
Dạy nghề đã được phục hồi sau nhiều năm suy giảm. Năm 2003 quy mô tuyển sinh dạy nghề dài hạn và ngắn hạn đã tăng hơn 2 lần, tuyển sinh THCN tăng 1,67 lần so với năm 1998, đưa tổng số học sinh học nghề và THCN lên 1,5 triệu. Dạy nghề ngắn hạn và dạy nghề cho nông dân được mở rộng. Số trường dạy nghề và trường THCN tăng (xin xem Phụ lục 3). Đến nay hầu hết các tỉnh đều có trường dạy nghề, bước đầu phát triển các trường dạy nghề thuộc một số ngành kinh tế mũi nhọn. Mặc dù vậy, quy mô dạy nghề dài hạn và THCN còn thấp so với yêu cầu của thị trường lao động. Cơ cấu ngành nghề đào tạo còn mất cân đối. Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp phân bố chưa hợp lý, còn tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn và các vùng kinh tế trọng điểm.
Kiến thức, kỹ năng của học sinh ở một số trường được đầu tư, trang bị tốt như trường cao đẳng công nghiệp 4 và một số trường thuộc ngành dầu khí, bưu chính viễn thông ... tương đương trình độ tiên tiến trong khu vực. Tuy nhiên, nhìn chung chất lượng đại trà của giáo dục nghề nghiệp còn thấp, đặc biệt là về kỹ năng thực hành và tác phong công nghiệp. Xã hội và các cấp, các ngành chưa thực sự coi trọng giáo dục nghề nghiệp, nhiều học sinh chỉ coi trường dạy nghề, trường THCN là nơi trú chân để chờ thi vào ĐH, cao đẳng (CĐ).
Một số chương trình, tài liệu dạy nghề đã được xây dựng theo phương pháp mới phù hợp với quy trình và công nghệ sản xuất hiện đại. Ở THCN, chương trình khung đang được xây dựng. Tuy vậy, tình trạng chung là thiếu giáo trình, giáo trình hiện có chưa bảo đảm liên thông giữa các cấp và các ngành đào tạo. Danh mục ngành nghề chưa được bổ sung, hoàn chỉnh. Hệ thống chuẩn đào tạo nghề chưa được ban hành.
Đội ngũ giáo viên các trường dạy nghề và THCN tăng chậm (xin xem Phụ lục 4), tỷ lệ học sinh/ giáo viên còn cao so với quy định . Đa số giáo viên còn hạn chế về kỹ năng thực hành, khả năng tiếp cận với công nghệ mới và phương pháp dạy học tiên tiến. Tỷ lệ giáo viên dạy nghề đạt chuẩn còn thấp, vào khoảng 69%.
Ngoài một số ít trường dạy nghề đang được tập trung đầu tư, xây dựng, còn phần lớn đều thiếu kinh phí, kể cả kinh phí mua thiết bị, nguyên liệu, vật liệu phục vụ việc thực hành của học sinh.
4. Giáo dục đại học và sau đại học
Từ năm 1998 đến nay quy mô giáo dục đại học và sau đại học đã tăng đáng kể (xin xem Phụ lục 2). Năm học 2003-2004 có hơn 1.032.000 sinh viên, gần 33.000 học viên cao học và nghiên cứu sinh. Hàng năm, số sinh viên từ khu vực nông thôn, miền núi đều chiếm khoảng 70% tổng số tuyển mới. Chính phủ đã thông qua quy hoạch mạng lưới các trường ĐH, CĐ làm cơ sở để phát triển thêm một số trường công lập và ngoài công lập ở Tây Bắc, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long, nên đã khắc phục được một bước sự bất hợp lý trong việc phân bố các cơ sở giáo dục ĐH giữa các vùng, miền. Mặc dù có chuyển biến, nhưng cơ cấu đào tạo giữa giáo dục ĐH với giáo dục nghề nghiệp vẫn chưa hợp lý, chưa đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ cao của thị trường lao động. Số học viên cao học và nghiên cứu sinh tăng quá nhanh trong khi chưa đủ điều kiện bảo đảm chất lượng.
Đa số sinh viên có ý thức chính trị tốt, có lối sống lành mạnh, tích cực tham gia các hoạt động xã hội như phong trào thanh niên tình nguyện, an toàn giao thông v.v., số sinh viên được kết nạp vào Đảng ngày càng nhiều. Ở một số ngành nghề trong một số trường trọng điểm có truyền thống như hai đại học quốc gia, trường đại học Bách khoa Hà Nội, trường đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh ..., trình độ của sinh viên tốt nghiệp đã tiếp cận trình độ của các trường ĐH trong khu vực.
Tình trạng đáng lo ngại hiện nay là còn nhiều sinh viên thiếu trung thực trong học tập và thi cử; một bộ phận chưa có hoài bão, lý tưởng; một số vi phạm nội quy, quy chế, có biểu hiện của lối sống hưởng thụ, đua đòi. Tệ nạn xã hội, nhất là ma tuý, cờ bạc, mê tín, vi phạm pháp luật trong sinh viên, tuy ít nhưng chưa ngăn chặn được, gây nhiều lo lắng trong xã hội. Việc tuyển sinh chặt chẽ nhưng đánh giá quá trình học tập lại lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên chưa chăm chỉ học tập. Sinh viên ít có điều kiện tham gia nghiên cứu khoa học; năng lực tự học, tự nghiên cứu, thực hành, khả năng giao tiếp và hợp tác trong công việc còn yếu. Trình độ ngoại ngữ của sinh viên tốt nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập. Chất lượng đào tạo sau đại học, đặc biệt là chất lượng của một số luận án tiến sỹ còn thấp, chưa theo kịp trình độ phát triển khoa học, công nghệ và chưa gắn với cuộc sống.
Việc xây dựng chương trình khung và công tác biên soạn chương trình, giáo trình của các trường ĐH, CĐ chưa được quan tâm đúng mức. Giáo trình đại học còn thiếu, nội dung còn lạc hậu; tài liệu tham khảo còn nghèo nàn. Chương trình chưa được thiết kế liên thông giữa các cấp, bậc, trình độ đào tạo.
Với số lượng khoảng 40.000 giảng viên (xin xem Phụ lục 4), so với quy mô trên 1 triệu sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh, hầu hết các trường ĐH, CĐ đều thiếu giảng viên. Đội ngũ giảng viên ĐH, CĐ mới có 45% đạt trình độ thạc sĩ trở lên. Phần đông giảng viên nòng cốt, chuyên gia đầu ngành đã cao tuổi, sự hẫng hụt đội ngũ vẫn chưa khắc phục được. Trong khi đó, chưa có chính sách thích hợp thu hút đội ngũ cán bộ khoa học của các cơ quan nghiên cứu tham gia giảng dạy tại các trường ĐH. Hoạt động nghiên cứu khoa học của các trường ĐH chưa được quan tâm đúng mức. Đa số giảng viên chỉ tập trung vào giảng dạy, ít tham gia nghiên cứu khoa học.
Bằng nhiều nguồn vốn (đầu tư từ ngân sách, từ học phí và tranh thủ viện trợ) các trường đã cố gắng nâng cấp thư viện, phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành, mua sắm thiết bị hiện đại và nối mạng Internet. Tuy vậy, tình trạng chung là cơ sở vật chất kỹ thuật của các trường ĐH, CĐ còn thiếu và lạc hậu; diện tích sử dụng của các trường chỉ mới đáp ứng khoảng 1/3 chuẩn quy định, đây là bất cập lớn của giáo dục ĐH nước ta. Tiến độ triển khai xây dựng cơ sở vật chất của hai đại học quốc gia, hai trường ĐH sư phạm trọng điểm còn rất chậm.
5. Giáo dục không chính quy
Giáo dục không chính quy phát triển mạnh trong các năm gần đây. Đến nay mạng lưới cơ sở giáo dục không chính quy đã phủ khắp các địa phương (xin xem Phụ lục 3). Tính trung bình, hàng năm có gần 300.000 người theo học các lớp bổ túc văn hóa; khoảng 700.000 người theo học các chương trình bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học, giáo dục từ xa và một số lượng khá lớn sinh viên các khóa đào tạo liên kết giữa các trường và địa phương. Quy mô giáo dục không chính quy phát triển nhanh, nhưng công tác quản lý còn yếu kém và điều kiện bảo đảm chất lượng còn rất thấp. Việc quản lý lỏng lẻo đối với các hệ liên kết đào tạo có cấp văn bằng đã dẫn đến tình trạng “học giả, bằng thật”. Đây là một khâu yếu nghiêm trọng của giáo dục không chính quy ở nước ta.
Các chương trình bổ túc văn hóa, phổ cập kiến thức, kỹ năng các ngành nghề đơn giản, về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu. Các chương trình giáo dục từ xa vẫn đang trong quá trình xây dựng, tiến độ còn chậm, chất lượng còn thấp.
Đội ngũ giáo viên không chính quy nhìn chung còn thiếu và trình độ thấp; cơ sở vật chất còn nghèo nàn, điều kiện để tổ chức thực hành, thực nghiệm còn rất hạn chế.
III. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT VỀ TÌNH HÌNH GIÁO DỤC
1. Các thành tựu
1.1. Nhu cầu học tập của nhân dân được đáp ứng tốt hơn, trước hết là ở giáo dục phổ thông.
Đã xây dựng được hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất, khá hoàn chỉnh bao gồm đủ các cấp học, bậc học, trình độ đào tạo, các loại hình nhà trường và phương thức giáo dục. Mạng lưới cơ sở giáo dục đã được mở rộng đến khắp các xã, phường, tạo điều kiện tăng trưởng rõ rệt về số lượng học sinh, sinh viên, khắc phục tình trạng giảm sút quy mô trong những năm từ 1986-1987 đến 1991-1992. Năm học 2003-2004, có khoảng 22,7 triệu người theo học trong hơn 37.000 cơ sở giáo dục. Đặc biệt, giáo dục mầm non và dạy nghề được khôi phục và có tiến bộ rõ rệt.
Năm 2004 về cơ bản đã đạt và vượt các chỉ tiêu mà Chiến lược phát triển giáo dục đề ra cho năm 2005 (xin xem Phụ lục 1).
Việc mở rộng quy mô, đa dạng hóa loại hình nhà trường (bán công, dân lập, tư thục) và phát triển các hình thức giáo dục không chính quy đã tạo thêm cơ hội học tập cho nhân dân, trước hết là thanh thiếu niên, góp phần thúc đẩy sự phát triển hệ thống giáo dục quốc dân và bước đầu hình thành xã hội học tập (xin xem Phụ lục 2 và 3).
1.2. Đã đạt được một số kết quả quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược :
Về nâng cao dân trí: Kết quả xóa mù chữ, phổ cập GD tiểu học đã được duy trì, củng cố và phát huy. Chủ trương PCGD THCS đang được triển khai tích cực, hiện đã có 20 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Một số tỉnh và thành phố đã bắt đầu thực hiện PCGD bậc trung học (bao gồm THPT, THCN và dạy nghề). Số năm đi học bình quân của cư dân 15 tuổi trở lên tăng liên tục từ 4,5 (vào năm 1990) lên 6,34 (vào năm 2000) và đến năm 2003 là 7,3. Bình đẳng giới trong giáo dục tiếp tục được đảm bảo. Đây là những thành tựu quan trọng, nhất là khi so sánh với các nước có trình độ phát triển kinh tế và thu nhập tính theo đầu dân tương đương hoặc cao hơn nước ta (xin xem Phụ lục 6).
Về đào tạo nhân lực: Tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 13% năm 1998 đã tăng lên trên 23% năm 2003. Chất lượng nguồn nhân lực đã có chuyển biến tích cực. Trong những thành tựu tăng trưởng kinh tế của đất nước hơn 10 năm qua có phần đóng góp rất quan trọng của đội ngũ lao động, mà tuyệt đại đa số được đào tạo ở trong nước. Nước ta cũng đã bắt đầu chủ động đào tạo được nguồn nhân lực phục vụ xuất khẩu lao động.
Về bồi dưỡng nhân tài: việc đào tạo, bồi dưỡng học sinh, sinh viên có năng khiếu đã được chú trọng và đạt được những kết quả rõ rệt. Nhà nước và một số ngành, địa phương đã dành một phần ngân sách để triển khai chương trình đào tạo cán bộ trình độ cao (thạc sĩ, tiến sĩ) trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, quản lý v.v. ở các nước tiên tiến. Số cán bộ này, sau khi tốt nghiệp đã trở về nước công tác và bắt đầu phát huy tác dụng.
1.3. Chính sách xã hội về giáo dục đã được thực hiện tốt hơn và có hiệu quả hơn.
Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa phát triển mạnh và có tiến bộ rõ rệt. Mạng lưới trường, lớp về cơ bản đã bảo đảm cho con em các dân tộc được học tập ngay tại xã, thôn, bản. Việc củng cố, phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú và tăng chỉ tiêu cử tuyển đã tạo thêm điều kiện cho con em các dân tộc thiểu số ở địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được đào tạo ở ĐH, CĐ, tạo nguồn cán bộ cho các vùng này. Đã thí điểm và chuẩn bị ban hành chính sách học nghề nội trú cho thanh niên, thiếu niên con em đồng bào dân tộc. Tiếng nói và chữ viết của 8 dân tộc thiểu số đã được đưa vào giảng dạy ở trường tiểu học; trong đó tiếng Hoa và tiếng Khơmer được dạy cả ở trường THCS.
Chính phủ đã có nhiều chính sách và biện pháp tăng đầu tư cho các vùng khó khăn như chương trình 135, chương trình kiên cố hóa trường, lớp học v.v. Nhờ vậy, cơ sở vật chất của giáo dục ở vùng khó khăn tiếp tục được củng cố, tăng cường. Việc miễn, giảm học phí, cấp học bổng và các chính sách hỗ trợ khác đã tạo điều kiện cho đại bộ phận con em các gia đình nghèo, diện chính sách được học tập, trước hết ở các cấp học phổ cập.
1.4. Chất lượng giáo dục đã có chuyển biến bước đầu
Nội dung giảng dạy và kiến thức của học sinh phổ thông có tiến bộ, toàn diện hơn và tiếp cận dần với phương pháp học tập mới. Trong giáo dục nghề nghiệp, chất lượng đào tạo của một số ngành nghề như y dược, nông nghiệp, cơ khí, xây dựng, giao thông vận tải, v.v. về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của thực tế sản xuất và đời sống hiện nay. Đặc biệt, sự tiến bộ về nhận thức chính trị và trách nhiệm xã hội của học sinh, sinh viên cùng với đội ngũ giáo viên, giảng viên đã góp phần vào việc bảo đảm ổn định chính trị của đất nước trong điều kiện có nhiều biến động của tình hình quốc tế và âm mưu, hành động của các thế lực thù địch đối với nước ta thời gian vừa qua.
1.5. Điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục được tăng cường hơn
Đã xây dựng được một đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đông đảo với tổng số trên một triệu người (khoảng 950.000 giáo viên, giảng viên và trên 90.000 cán bộ quản lý giáo dục), với trình độ ngày càng được nâng cao.
Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học ở các cấp, bậc học, ở mọi vùng miền đã được cải thiện đáng kể trong 5-6 năm qua, nhất là từ khi thực hiện chủ trương đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và kiên cố hoá trường, lớp học. Một số địa phương, một số trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề đã nỗ lực để từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất, thiết bị dạy học.
2. Nguyên nhân của các thành tựu trong giáo dục
2.1. Truyền thống hiếu học của dân tộc đã tiếp tục được phát huy mạnh mẽ, thể hiện trong từng gia đình, từng dòng họ, từng cộng đồng dân cư. Nhân dân đã không tiếc công sức, tiền của đầu tư và khuyến khích động viên con em vượt khó khăn, chăm chỉ học tập; hỗ trợ và tạo điều kiện cho các nhà trường thực hiện dạy tốt, học tốt.
2.2. Sự lãnh đạo của Đảng, của Quốc hội, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và chính quyền các cấp; sự quan tâm, tham gia đóng góp của các tổ chức, đoàn thể và toàn xã hội đối với giáo dục. Trong khoảng 10 năm, BCH Trung ương đã dành 3 hội nghị chuyên đề bàn về giáo dục. Quốc hội đã thông qua Luật Giáo dục và quyết định nhiều chủ trương lớn về phát triển giáo dục. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các chính sách và trực tiếp chỉ đạo ngành giáo dục triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng và Quốc hội. Các địa phương đã quan tâm chỉ đạo và đầu tư để tăng cường cơ sở vật chất và giải quyết chế độ cho giáo viên. Toàn xã hội không chỉ đóng góp tiền của, công sức, mà cả về trí tuệ cho việc xây dựng và phát triển giáo dục, tham gia trực tiếp vào các hoạt động giáo dục.
2.3. Lòng yêu nước, yêu người, yêu nghề và những nỗ lực của đội ngũ nhà giáo. Đội ngũ này không chỉ truyền đạt các kiến thức chuyên môn, mà còn thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức, lý tưởng cho học sinh, sinh viên; giải thích các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước trong nhân dân, trong xã hội. Những giáo viên công tác ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đóng góp to lớn vào sự nghiệp trồng người.
3. Các bất cập, yếu kém và khuyết điểm trong giáo dục
3.1. Chất lượng giáo dục đại trà, đặc biệt ở bậc đại học còn thấp; phương pháp giáo dục còn lạc hậu và chậm đổi mới.
Kiến thức cơ bản về xã hội, kỹ năng thực hành và khả năng tự học của số đông học sinh phổ thông còn kém. Nhà trường phổ thông vẫn chưa khắc phục được tình trạng thiên về dạy chữ, nhẹ về dạy người. Công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS và THPT còn chưa được quan tâm đúng mức. Chất lượng đào tạo đại trà của giáo dục nghề nghiệp và đại học còn thấp, tình trạng người học thiếu cố gắng, thiếu trung thực trong học tập khá phổ biến; tinh thần hợp tác, khả năng sáng tạo, năng lực thực hành, giải quyết độc lập các vấn đề còn yếu. Chất lượng giảng dạy, học tập các môn chính trị còn thấp, hiệu quả chưa cao. Các ngành mũi nhọn, các lĩnh vực công nghệ mới ở dạy nghề, đại học, sau đại học nhìn chung còn kém các nước tiên tiến trong khu vực về cả nội dung lẫn phương pháp đào tạo. Về cơ bản, chưa xây dựng được các ngành nghề đào tạo mũi nhọn ngang tầm khu vực và quốc tế.
Ở tất cả các cấp học, bậc học, cách dạy, cách học trong các nhà trường chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa phát huy tinh thần tự học và tư duy sáng tạo của người học. Cách thức đánh giá, tổ chức thi cử chậm được đổi mới, tạo ra tâm lý dạy và học để đối phó với thi cử, gây căng thẳng cho người học, người dạy, cho xã hội, làm chậm quá trình đổi mới phương pháp dạy và học trong nhà trường.
3.2. Các điều kiện bảo đảm phát triển giáo dục còn nhiều bất cập. Đội ngũ giáo viên vừa thiếu vừa thừa, chưa đồng bộ; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận còn thấp. Cơ sở vật chất rất thiếu và lạc hậu. Nguồn lực tài chính cho giáo dục chưa bảo đảm nhu cầu chi thường xuyên, nhất là đối với các tỉnh khó khăn; cơ cấu chi ngân sách giáo dục còn chưa hợp lý (xin xem Phụ lục 5), kinh phí chi thường xuyên chủ yếu mới chỉ bảo đảm chi lương và các khoản phụ cấp (chiếm hơn 80% tổng chi thường xuyên của ngân sách giáo dục), phần chi cho hoạt động chuyên môn không đáng kể. Các quy định hiện hành về quản lý ngân sách, tài chính, nhân sự chưa tạo cho ngành giáo dục được chủ động trong việc điều hành các nguồn lực. Đầu tư còn dài trải, chưa tập trung cao cho các mục tiêu ưu tiên.
3.3. Con em gia đình nghèo, gia đình có thu nhập thấp (cận nghèo) và con em đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục, nhất là ở các bậc học cao
Việc thực hiện chính sách cử tuyển ĐH gặp khó khăn do quy định cứng về địa bàn cư trú của đối tượng cử tuyển trong điều kiện nhiều xã đặc biệt khó khăn không đủ nguồn. Mặt khác, số học sinh đã được cử đi học tuy được cấp học bổng, được tạo điều kiện ăn ở tại ký túc xá nhưng mức học bổng còn thấp, khả năng tiếp thu kiến thức còn hạn chế, lại chưa quen với những thay đổi trong sinh hoạt nên chưa yên tâm học tập.
Việc đầu tư cho các xã miền núi không thuộc diện được hưởng chương trình 135 rất hạn chế nên giáo dục ở các xã này phát triển chậm. Số trẻ em dân tộc được học mẫu giáo 5 tuổi còn chiếm tỷ lệ thấp, nhiều em chưa được chuẩn bị về tiếng Việt, nên rất khó khăn khi theo học lớp 1.
Các gia đình có thu nhập thấp (cận nghèo) chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng số hộ gia đình nước ta nhưng chưa có chính sách hỗ trợ phù hợp nên con em các gia đình này gặp khó khăn về tài chính khi học tập ở các bậc học cao.
3.4. Một số hiện tượng tiêu cực trong giáo dục chậm được giải quyết
Tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan tồn tại từ nhiều năm nay, có những biểu hiện tiêu cực nhưng chưa tìm được giải pháp cơ bản để ngăn chặn có hiệu quả.
Tệ nạn sử dụng văn bằng, chứng chỉ không hợp pháp; hiện tượng “học giả, bằng thật”, không trung thực trong học tập và thi cử, sao chép luận văn, luận án có xu hướng lan rộng, ảnh hưởng xấu đến chất lượng đào tạo, đến đạo đức của thế hệ trẻ và lòng tin của xã hội.
Bệnh thành tích đã tác động đến quá trình giảng dạy, học tập, đánh giá học sinh, cũng như công tác quản lý giáo dục, và đây là một trong những nguyên nhân làm cho việc đánh giá tình hình giáo dục, nhất là về chất lượng, chưa phản ánh hết thực chất.
4. Nguyên nhân của các yếu kém trong giáo dục
4.1. Tư duy giáo dục chậm được đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của đất nước cũng như đòi hỏi của sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế.
Các bộ, ngành, các cấp chính quyền địa phương chưa quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục, chưa cụ thể hóa kịp thời và đầy đủ trong việc hoạch định một số chính sách và tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục.
Chưa nhận thức đầy đủ để có giải pháp đối với các vấn đề mới nảy sinh trong mối quan hệ giữa kế hoạch phát triển giáo dục và thị trường lao động; giữa mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng, hiệu quả; giữa đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân và khả năng hạn hẹp của nền kinh tế; giữa đầu tư của Nhà nước và đóng góp của nhân dân; giữa tình trạng phân hóa giàu nghèo và yêu cầu bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục.
Chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của công tác dự báo và nghiên cứu khoa học giáo dục.
4.2. Quản lý về giáo dục còn yếu kém và bất cập
Cơ chế quản lý giáo dục chưa tương thích với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Quản lý nhà nước về giáo dục còn nặng tính quan liêu, chưa thoát khỏi tình trạng ôm đồm, sự vụ. Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch còn nhiều bất cập.
Hệ thống luật pháp và các chính sách về giáo dục chưa hoàn chỉnh, thiếu hiệu lực. Còn thiếu các đạo luật cụ thể về điều kiện phát triển và bảo đảm chất lượng như Luật Giáo viên; về các bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân như Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp v.v. Một số quy định về đầu tư, quản lý nhân sự, đất đai, tài chính v.v. chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống nhất quản lý và phát triển giáo dục. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước còn dàn trải, không đủ bảo đảm nhu cầu phát triển giáo dục, trong khi đó chưa có chính sách đủ mạnh để huy động các nguồn đầu tư khác trong xã hội. Chính sách về học phí có nhiều điểm không còn phù hợp, nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung, dẫn đến tình trạng địa phương và nhà trường đặt ra quá nhiều khoản thu, gây bức xúc trong xã hội. Chính sách tuyển dụng, sử dụng cán bộ thiên về bằng cấp, chưa chú ý đúng mức đến năng lực thực tế dẫn đến tình trạng “học giả, bằng thật” và một số hiện tượng tiêu cực khác.
Công tác chỉ đạo, điều hành còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đưa ra những quyết sách đồng bộ ở tầm vĩ mô. Việc phân công, phân cấp và cơ chế phối hợp giữa Bộ GD&ĐT, Bộ LĐ-TB&XH với các bộ, ngành, địa phương chậm được thể chế hoá. Các cấp chính quyền ở nhiều địa phương vẫn còn thiếu chủ động trong việc thực hiện các chủ trương và giải quyết các vấn đề cụ thể về giáo dục; chưa quan tâm đầy đủ đến việc khắc phục bệnh thành tích và các tiêu cực trong giáo dục. Quản lý của ngành giáo dục và của địa phương đối với các cơ sở ngoài công lập còn lúng túng, một mặt chưa tạo điều kiện thuận lợi để các trường này phát triển, mặt khác, chưa ngăn chặn kịp thời tình trạng lợi dụng chính sách xã hội hoá nhằm thu lợi bất chính. Công tác kiểm tra, thanh tra giáo dục, đặc biệt là thanh tra chuyên môn còn bất cập, kém hiệu quả. Trình độ và năng lực của một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục còn thấp, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục.
4.3. Bên cạnh các nguyên nhân chủ yếu đã nêu ở trên cần kể đến những tác động khách quan làm tăng thêm các yếu kém, bất cập của giáo dục.
Nhu cầu học tập của nhân dân ngày càng cao, trong khi khả năng đáp ứng của ngành giáo dục và trình độ phát triển kinh tế của đất nước còn hạn chế. Mức đầu tư cho giáo dục tính trung bình cho 1 người dân còn thấp so với yêu cầu bảo đảm chất lượng và so với các nước: ở Trung Quốc là 105 USD, ở Thái Lan là 350 USD, ở Malaixia là 720 USD trong khi đó ở Việt Nam là 53 USD (Tính theo sức mua tương đương - xin xem Phụ lục 6).
Sức đón nhận của thị trường lao động còn hạn chế, chưa thỏa mãn nhu cầu việc làm của người lao động đã qua đào tạo.
Tâm lý khoa cử, bằng cấp vẫn chi phối nặng nề việc dạy, học và thi cử. Thái độ chưa coi trọng các trường ngoài công lập làm hạn chế việc đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục.
Một số hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội đã thâm nhập vào nhà trường và cơ quan giáo dục, dù đã có nhiều cố gắng ngăn chặn song chưa đạt hiệu quả cao.
Phần thứ hai
NHỮNG NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TỪ NAY ĐẾN NĂM 2010
Từ việc đánh giá tình hình giáo dục, với những thành tựu cũng như các yếu kém, bất cập nêu trên, Chính phủ xin báo cáo với Quốc hội những nhiệm vụ và giải pháp phát triển giáo dục từ nay đến năm 2010.
I. TIẾP TỤC ĐỔI MỚI MẠNH MẼ TƯ DUY GIÁO DỤC
Mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2010 và về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 đòi hỏi giáo dục phải phát triển mạnh mẽ để góp phần thúc đẩy CNH, HĐH. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ; xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân vừa là thời cơ, vừa tạo ra thách thức to lớn đối với giáo dục nước ta. Trong bối cảnh đó, giáo dục phải được đổi mới mạnh mẽ, trước hết là phải đổi mới tư duy một cách sâu sắc, toàn diện với các nội dung sau đây:
1. Cần nhận thức sâu sắc hơn mục tiêu giáo dục trong thời kỳ mới là phát triển con người Việt Nam với đầy đủ bản lĩnh và phẩm chất tốt đẹp của dân tộc và của thời đại, đáp ứng những đòi hỏi của công cuộc CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Thế hệ trẻ do nhà trường đào tạo phải trung thực, năng động và sáng tạo, biết hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, có hoài bão, có ý chí vươn lên, tự lập thân, lập nghiệp và góp phần đưa đất nước ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu.
2. Nền giáo dục Việt Nam phải là nền giáo dục của dân, do dân, vì dân, hướng tới một xã hội học tập. Nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân và yêu cầu xây dựng xã hội học tập đòi hỏi phải xem xét lại nhiều vấn đề của hệ thống giáo dục quốc dân. Hệ thống giáo dục không chỉ dành cho tuổi trẻ, mà còn dành cho tất cả mọi người để học tập suốt đời, trong đó, học theo trường lớp chính quy và không chính quy đều có thể đạt được trình độ mong muốn về kiến thức và kỹ năng.
3. Xã hội hoá giáo dục là giải pháp cơ bản để phát triển giáo dục. Cùng với việc tăng ngân sách và điều chỉnh cơ cấu đầu tư để tập trung giải quyết các mục tiêu ưu tiên, Nhà nước cần tạo cơ chế, mạnh dạn huy động nguồn lực và trí tuệ từ nhân dân để phát triển giáo dục và có chính sách bảo đảm bình đẳng giữa trường công lập và trường ngoài công lập. Gắn chặt hơn nữa mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
4. Giáo dục Việt Nam phải tăng cường hợp tác quốc tế nhằm nâng cao khả năng hợp tác và cạnh tranh của đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Khoa học và công nghệ có những bước phát triển nhảy vọt, khối lượng tri thức của nhân loại ngày càng lớn, đòi hỏi giáo dục phải thường xuyên cập nhật các thành tựu mới, đồng thời phải chuyển dần từ việc học để tiếp nhận tri thức sang học để biết cách tìm kiếm và tích lũy tri thức.
Trong bối cảnh trên, để tạo ra sự chuyển biến cơ bản và vững chắc, rút ngắn khoảng cách so với các nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, giáo dục nước ta cần phải được tiếp tục đổi mới theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa. Chính phủ dự kiến sẽ điều chỉnh một số chỉ tiêu, bổ sung, hoàn chỉnh một số nhiệm vụ và giải pháp của Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-2010, từ đó xây dựng Tầm nhìn và Chiến lược phát triển giáo dục cho 15-20 năm tới. Để làm được việc đó, sẽ tập trung lực lượng, phát huy trí tuệ của toàn xã hội tổng kết thực tiễn giáo dục trong thời kỳ đổi mới, nghiên cứu kinh nghiệm và mô hình giáo dục tiên tiến, vận dụng phù hợp vào điều kiện nước ta. Cùng với việc xây dựng Tầm nhìn và Chiến lược đó, trước mắt Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo giải quyết một số nhiệm vụ trọng tâm với những giải pháp quyết liệt để trong vài năm tới giáo dục nước nhà có chuyển biến rõ rệt, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển tiếp theo.
II. MỘT SỐ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP
1. Đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập
Chính phủ coi đây là một nhu cầu chính đáng và bức bách của nhân dân, cần tích cực giải quyết. Với tinh thần đó, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau đây:
- Tiếp tục mở rộng nhanh quy mô giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp ngay từ năm học 2005-2006. Từ năm 2005 tăng quy mô tuyển sinh ĐH, CĐ trung bình từ mức 5-6%/năm hiện nay lên trung bình 10%/năm, để đến năm 2010 đạt chỉ tiêu 200 sinh viên/1 vạn dân. Phát triển các trường ĐH, CĐ ngoài công lập để đến năm 2010 sẽ có khoảng 40% sinh viên theo học tại các trường này. Mở rộng mạng lưới các trường CĐ cộng đồng và xây dựng chương trình ĐH ngắn hạn, tạo cơ hội cho nhiều người được học ĐH, CĐ. Huy động các nguồn đầu tư để đến năm 2010 xây dựng được 40 trường dạy nghề trọng điểm; chỉ đạo để mỗi huyện hoặc cụm liên huyện có ít nhất một trung tâm dạy nghề, đáp ứng nhu cầu học nghề của nhân dân và tạo điều kiện phân luồng sau THCS, THPT.
- Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng liên thông, mở ra nhiều khả năng và cơ hội học tập khác nhau cho thế hệ trẻ, đặc biệt là phát triển hệ thống dạy nghề, chú trọng dạy nghề trình độ cao. Xây dựng các chương trình đào tạo liên thông giữa các bậc học, tạo điều kiện cho người lao động có thể học chương trình đại học mà không nhất thiết phải bắt đầu ngay sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông.
Giảm thủ tục, quy định rõ điều kiện thành lập và có chính sách hỗ trợ các trường ĐH, CĐ, THCN và dạy nghề ngoài công lập bằng cách cho vay vốn ưu đãi, cấp đất hoặc cho thuê đất dài hạn để xây dựng trường, cấp kinh phí khi thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước giao. Bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư khi góp vốn xây dựng trường, đồng thời quy định nhà đầu tư mở trường phải xây dựng cơ sở vật chất, đội ngũ, chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu bảo đảm chất lượng. Khắc phục tình trạng phân biệt đối xử với trường ngoài công lập để trường ngoài công lập bình đẳng với trường quốc lập trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục và các quy định liên quan đến tuyển sinh, dạy và học, thi và kiểm tra, công nhận tốt nghiệp, cấp văn bằng và tuyển dụng học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp.
- Trong năm 2005 xây dựng và ban hành chính sách học phí, học bổng hợp lý trên cơ sở đổi mới quan niệm về học phí, học bổng. Ngoài phần hỗ trợ của Nhà nước nhằm thực hiện chính sách xã hội và các mục tiêu ưu tiên, về nguyên tắc, học phí phải được tính đúng, tính đủ chi phí cần thiết cho hoạt động giáo dục, đào tạo. Đồng thời sẽ điều chỉnh mức học bổng và mức trợ cấp xã hội để con em các gia đình nghèo, diện chính sách và học sinh, sinh viên xuất sắc có điều kiện thuận lợi để học tập tốt hơn.
- Từ năm 2005 triển khai Đề án xây dựng xã hội học tập, với lực lượng nòng cốt là Hội Khuyến học và các tổ chức đoàn thể. Tổng kết, rút kinh nghiệm việc xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng để tiếp tục phát triển có hiệu quả. Củng cố, tăng cường, phát triển hệ thống giáo dục cho người lớn. Tổ chức thí điểm các chương trình giáo dục tự chọn, tạo cơ hội để người học có thể chủ động học tập theo phương châm “cần gì học nấy, học suốt đời”. Xây dựng kênh giáo dục truyền hình và các nội dung giáo dục trên mạng để phát triển giáo dục từ xa.
- Phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận để huy động mọi lực lượng xã hội, trước hết là phụ huynh học sinh xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, ngăn chặn các tệ nạn, tiêu cực xã hội thâm nhập vào nhà trường. Phát triển các hình thức huy động cộng đồng tham gia giám sát hoạt động của nhà trường và giải quyết những vấn đề quan trọng của giáo dục. Tạo điều kiện để các nhà giáo, nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội đóng góp công sức, trí tuệ vào quá trình ra quyết định và xây dựng chính sách giáo dục; xây dựng chương trình, SGK, giáo trình; đánh giá chất lượng giáo dục.
2. Nâng cao rõ rệt chất lượng và hiệu quả giáo dục
Chính phủ coi đây là nhiệm vụ trọng tâm cơ bản, lâu dài và sẽ tập trung chỉ đạo tiếp tục đổi mới mục tiêu, nội dung giáo dục, đặc biệt là cách dạy, cách học trong nhà trường, tăng cường các điều kiện về đội ngũ giáo viên, giảng viên, cơ sở vật chất kỹ thuật theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá. Trong đó, các giải pháp chủ yếu là:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia tiếp cận trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới, bao gồm chuẩn về kiến thức, kỹ năng đối với từng cấp học, bậc học và trình độ đào tạo; các yêu cầu cơ bản về đạo đức, tác phong và trách nhiệm của người học; chuẩn về các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục (đội ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý và công nhân viên; SGK, giáo trình và tài liệu tham khảo; trường sở, thiết bị, phòng thí nghiệm, thư viện, sân chơi, bãi tập v.v..). Hệ thống chuẩn quốc gia là căn cứ để chỉ đạo thực hiện và đánh giá chất lượng giáo dục.
- Xây dựng danh mục ngành nghề và chương trình phát triển nhân lực quốc gia, xác định nhu cầu nhân lực đối với các cấp trình độ của các ngành nghề chủ yếu làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo nhân lực. Chương trình nhân lực quốc gia và danh mục ngành nghề góp phần định hướng việc mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục; đồng thời giúp cho học sinh sớm định hướng nghề nghiệp, giải quyết phân luồng ngay từ nhà trường phổ thông. Việc soạn thảo danh mục ngành nghề và chương trình phát triển nhân lực quốc gia sẽ hoàn thành vào năm 2006.
- Tiếp tục đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội. Trên cơ sở nghiêm túc đánh giá kết quả triển khai hơn hai năm qua, tiếp thu các ý kiến đóng góp của xã hội, tổ chức rà soát, chỉnh lý nhằm khắc phục các sai sót, giảm tải hợp lý nội dung chương trình ở tiểu học và THCS phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh. Ngay trong năm học 2004-2005, Chính phủ sẽ chỉ đạo Bộ GD&ĐT rút kinh nghiệm thí điểm phân ban THPT và tham khảo rộng rãi ý kiến của các nhà giáo, nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội, cán bộ quản lý và phụ huynh học sinh ..., để hoàn thiện phương án phân hóa theo hướng mềm dẻo, linh hoạt, bảo đảm khả thi với bước đi thích hợp.
Đối với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học, phát huy ưu điểm của các chương trình đào tạo hiện có, tiếp nhận có chọn lọc những chương trình tốt trên thế giới để xây dựng một hệ thống chương trình đa dạng, mềm dẻo, linh hoạt, tiên tiến và hiện đại, liên thông giữa các trình độ đào tạo. Chú trọng định hướng thực hành trong đào tạo, phát triển các chương trình dạy nghề sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đào tạo kỹ sư thực hành và cử nhân khoa học ứng dụng. Chính phủ chỉ đạo Bộ GD&ĐT khẩn trương hoàn thành Đề án đổi mới giáo dục đại học để ban hành trong năm 2006.
- Tập trung đổi mới một cách mạnh mẽ phương pháp dạy và học. Từ năm học 2004 - 2005 triển khai Đề án ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, học tập và quản lý ở nhà trường, coi đây là khâu đột phá để đổi mới cách dạy, cách học, cách quản lý giáo dục. Giảm bớt giờ lên lớp, tăng thời gian tự học và thảo luận chuyên đề, nhất là ở bậc đại học. Tạo chuyển biến cơ bản về phương pháp giảng dạy các môn chính trị trong nhà trường, gắn lý luận với thực tiễn, kết hợp học tập nội khóa với các chương trình sinh hoạt ngoại khoá và các hoạt động giáo dục truyền thống. Chỉ đạo đẩy nhanh việc mở rộng học chế tín chỉ ở các trường ĐH, CĐ, THCN và dạy nghề ngay từ năm học 2005 - 2006, phấn đấu để đến năm 2010, hầu hết các trường ĐH, CĐ đều áp dụng hình thức tổ chức đào tạo này.
- Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo Chỉ thị 40-CT/TW của Ban Bí thư. Đổi mới công tác đào tạo giáo viên và cán bộ giáo dục ở các trường sư phạm. Mở rộng phương thức đào tạo giáo viên bằng cách tổ chức khóa đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho các sinh viên tốt nghiệp đại học ở các chuyên ngành khác có nguyện vọng làm công tác giảng dạy. Tập trung bồi dưỡng phương pháp dạy học, làm cho mọi giáo viên đều quán triệt yêu cầu đổi mới phương pháp, coi trọng vai trò chủ động, tích cực và sáng tạo, phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu, tự đánh giá và khả năng lập nghiệp của người học.
Triển khai thực hiện Chương trình quốc gia về giáo viên nhằm giải quyết tình trạng thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ, không đồng bộ về cơ cấu. Ngay từ năm 2005 bố trí ngân sách để giải quyết chế độ nghỉ hưu trước tuổi đối với số giáo viên lớn tuổi không đủ điều kiện tiếp tục công tác trong ngành và phấn đấu giải quyết xong vấn đề này trong một vài năm tới. Từng bước khắc phục sự cách biệt không cần thiết giữa giáo viên trong biên chế và ngoài biên chế, giữa giáo viên các trường công lập và trường ngoài công lập, tiến tới mọi giáo viên có trách nhiệm và quyền lợi như nhau (chỉ khác nhau ở nguồn trả lương). Chấn chỉnh công tác công nhận và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư theo hướng nâng cao chất lượng và gắn với trường ĐH để đáp ứng yêu cầu chuẩn hoá và khắc phục tình trạng hẫng hụt đội ngũ giảng viên đầu ngành. Thể chế hoá công tác nghiên cứu khoa học của giảng viên trong các trường ĐH, coi đây là một tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng một trường ĐH. Trong năm 2005 bổ sung, hoàn thiện chính sách về chế độ kiêm nhiệm tham gia giảng dạy của cán bộ khoa học làm việc ở các viện nghiên cứu.
- Thực hiện Chương trình kiên cố hoá trường, lớp học; đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn công trái; tăng cường kiểm tra, giám định, bảo đảm chất lượng công trình, nâng cao hiệu quả sử dụng. Kiên quyết xoá bỏ tình trạng học ba ca, cơ bản hoàn thành việc thay thế phòng học tranh tre bằng phòng học kiên cố trước khi kết thúc năm 2005. Chuẩn bị đủ điều kiện để tới năm 2010 đạt mục tiêu hầu hết học sinh tiểu học và khoảng 40% học sinh THCS được học 2 buổi/ngày tại trường. Tăng tỷ lệ trường mầm non và trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Chính phủ sẽ dành nguồn vốn ODA để tập trung ưu tiên hiện đại hóa một số trường và ngành nghề đào tạo trọng điểm, xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm chung cho các trường ĐH và các viện nghiên cứu. Đồng thời, tạo cơ chế cho các trường ĐH, CĐ, THCN, dạy nghề chủ động huy động vốn để tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, trước hết là xây dựng và củng cố phòng thí nghiệm, xưởng thực hành, thư viện điện tử, nối mạng máy tính. Đến năm 2010 cơ bản hoàn thành giai đoạn 1 xây dựng hai đại học quốc gia và hai trường đại học sư phạm trọng điểm.
- Từ năm 2005 triển khai hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục và thực hiện công bố định kỳ kết quả kiểm định. Từng bước áp dụng tiêu chí của các nước phát triển để đánh giá chất lượng đào tạo ở một số lĩnh vực cụ thể; chuẩn bị điều kiện để tham gia vào hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục quốc tế. Trong năm học 2005-2006, sẽ tiến hành kiểm định chất lượng khoảng 20% số trường ĐH. Trong 2 - 3 năm tiếp theo hoàn thành đợt 1 việc kiểm định các trường ĐH theo hai nhóm tiêu chí chủ yếu là đào tạo và nghiên cứu khoa học.
3. Thực hiện tốt hơn công bằng xã hội, ưu tiên phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc, vùng khó khăn và giáo dục cho trẻ em bị thiệt thòi
Bắt đầu từ năm 2005, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau đây:
- Điều chỉnh cơ cấu đầu tư từ ngân sách nhà nước, theo hướng ưu tiên cho giáo dục phổ cập, giáo dục vùng khó khăn, các chương trình trọng điểm, chương trình nhân lực quốc gia, học bổng cho người nghèo và diện chính sách. Phân công các tỉnh, thành phố có điều kiện phát triển về kinh tế - xã hội hỗ trợ giáo dục ở các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Lồng ghép Chương trình xoá đói, giảm nghèo với các dự án phát triển giáo dục dành cho địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
- Xoá xã “trắng” về cơ sở giáo dục mầm non, tạo điều kiện để hầu hết trẻ 5 tuổi con em đồng bào dân tộc thiểu số được học mẫu giáo nhằm chuẩn bị về tiếng Việt trước khi vào lớp 1. Củng cố, hoàn thiện mạng lưới trường lớp, phát triển mô hình trường phổ thông dân tộc nội trú và đưa chương trình dạy nghề thích hợp vào dạy cho các em học sinh dân tộc nội trú không học tiếp ở bậc học cao để về địa phương phục vụ. Điều chỉnh học bổng và thực hiện nghiêm túc các chế độ, chính sách đối với con em đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng chỉ tiêu dự bị ĐH và thời gian học dự bị có thể từ 1 năm đến 2 năm đối với con em các dân tộc đặc biệt khó khăn. Tổng kết công tác cử tuyển để ban hành quy định về chế độ cử tuyển phù hợp với tình hình mới nhằm bảo đảm chất lượng và thực hiện đúng mục tiêu.
- Mở rộng hình thức ngân hàng cho học sinh, sinh viên vay tiền để học tập, tạo điều kiện cho con em gia đình nghèo, gia đình có thu nhập thấp (cận nghèo) theo học ở các bậc học cao. Cải tiến thủ tục và nâng số tiền được vay để đủ trang trải cho việc học tập; đồng thời quy định chặt chẽ để người vay hoàn trả sau khi tốt nghiệp và có việc làm.
- Chính phủ giao cho Bộ GD&ĐT phối hợp với Bộ LĐTB&XH, Bộ Y tế và các bộ, ngành có liên quan hoàn thiện các chương trình giáo dục trẻ khuyết tật; chỉ đạo và bồi dưỡng giáo viên dạy trẻ khuyết tật; nâng cấp cơ sở vật chất cho các trung tâm phục hồi chức năng, các trường chuyên biệt và các lớp hòa nhập, tổ chức các hình thức học tập đa dạng để ngày càng nhiều trẻ khuyết tật được học tập, giúp các em phục hồi chức năng và hòa nhập xã hội.
4. Đẩy mạnh khả năng chủ động hợp tác quốc tế trong giáo dục
Đối với nhiệm vụ này, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau đây:
- Cho phép các trường ĐH, CĐ, THCN và dạy nghề áp dụng có chọn lọc các chương trình, giáo trình tiên tiến về các môn khoa học tự nhiên, công nghệ, ngoại ngữ của các nước phát triển, bảo đảm phù hợp với mục tiêu, yêu cầu và thực tiễn giáo dục nước ta; đồng thời xây dựng các chương trình đào tạo có khả năng chuyển đổi với các cơ sở giáo dục nước ngoài.
- Triển khai chiến lược dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, tập trung chủ yếu vào tiếng Anh, khuyến khích dạy và học ngoại ngữ thứ hai. Cho phép một số cơ sở giáo dục đại học và sau đại học giảng dạy song ngữ (bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài) ở một số môn học, ngành học.
- Mở rộng hình thức du học tại chỗ bằng cách tạo điều kiện để các trường ĐH, CĐ hợp tác với các trường có uy tín ở nước ngoài thực hiện chương trình liên kết đào tạo, đặc biệt là đào tạo sau đại học, theo phương thức: những năm đầu đào tạo trong nước, những năm còn lại đào tạo ở nước ngoài. Có chính sách thu hút để các nhà đầu tư nước ngoài mở các cơ sở giáo dục 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam.
- Tập trung kinh phí của Nhà nước và huy động lực lượng giảng viên trình độ cao để xây dựng một vài trường ĐH ngang trình độ tiên tiến trong khu vực và quốc tế.
- Trên cơ sở tăng cường năng lực và chất lượng đào tạo, tăng số lượng, đồng thời nâng cấp trình độ đào tạo nhân lực phục vụ xuất khẩu lao động; thu hút học sinh, sinh viên các nước đến Việt Nam du học; tiến tới tham gia thị trường đào tạo nhân lực quốc tế.
5. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý giáo dục
Để khắc phục các yếu kém trong công tác quản lý giáo dục, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau đây:
- Phân cấp mạnh trong quản lý giáo dục, làm rõ trách nhiệm của Chính phủ, của các bộ, ngành, địa phương và cơ sở giáo dục. Triển khai nghiêm túc Nghị định 166/2004/NĐ-CP “Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục”; xác định rõ cơ chế phối hợp giữa Bộ GD&ĐT, Bộ LĐ-TB&XH với các bộ, ngành, địa phương. Phân cấp cho UBND cấp tỉnh quyết định và chịu trách nhiệm cụ thể hoá các chính sách giáo dục, huy động nguồn lực, xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn.
- Chỉ đạo Bộ GD&ĐT, Bộ LĐTB&XH cải tiến công tác quản lý, điều hành, tập trung vào chức năng quản lý nhà nước, lấy việc quản lý chất lượng làm nhiệm vụ trọng tâm. Bộ GD&ĐT, Bộ LĐ-TB&XH phối hợp với các bộ, ngành có liên quan khẩn trương hoàn chỉnh hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục; tiến hành xây dựng các dự án Luật Giáo viên, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp để trình Quốc hội thông qua trong khoảng 3 - 5 năm tới; đồng thời rà soát, bổ sung các văn bản còn thiếu, thay thế, sửa đổi các văn bản đã lạc hậu hoặc còn chồng chéo.
Cùng với việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục, trong năm 2005 sẽ bổ sung các quy định để tăng cường quyền tự chủ và trách nhiệm của cơ sở giáo dục đối với xã hội về sản phẩm đào tạo, về tài chính, nhân sự và tuyển sinh. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học được tự quyết định chương trình và nội dung đào tạo trên cơ sở chuẩn kiến thức, kỹ năng và chương trình khung do Bộ GD&ĐT ban hành.
- Rà soát, sửa đổi các quy định về đầu tư, quản lý nhân sự, đất đai, tài chính v.v. nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển giáo dục. Ban hành chính sách mới về học phí, học bổng; về giao quyền sử dụng đất, bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập chính đáng của nhà đầu tư tham gia mở trường.
- Đổi mới và tăng cường công tác thanh tra giáo dục, tập trung vào thanh tra chuyên môn, khắc phục những thiếu sót, sơ hở và bệnh thành tích trong khâu đánh giá, thi cử. Chấn chỉnh việc tổ chức liên kết đào tạo, ngăn chặn và tiến tới xoá bỏ tình trạng “học giả, bằng thật”. Xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp lợi dụng hoạt động giáo dục nhằm thu lợi bất chính. Quy định trách nhiệm cụ thể và tăng thêm quyền của thanh tra giáo dục trong việc xử lý kết quả thanh tra, kiểm tra. Bổ sung biên chế và nâng cao chất lượng đội ngũ thanh tra viên giáo dục, đồng thời xây dựng chương trình đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra viên để chuyên nghiệp hóa đội ngũ này.
- Rà soát, bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục; xây dựng lực lượng chủ chốt tận tâm, thạo việc, có năng lực điều hành. Bộ GD&ĐT phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục phù hợp các yêu cầu phát triển giáo dục trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Tăng cường nền nếp kỷ cương và khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục
Để tăng cường nền nếp kỷ cương và giải quyết một số hiện tượng tiêu cực trong giáo dục, Chính phủ sẽ chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp gồm cả những chính sách vĩ mô và các biện pháp chuyên môn, hành chính. Cụ thể là :
6.1. Đối với các tiêu cực trong dạy thêm, học thêm :
Biểu hiện tiêu cực của dạy thêm, học thêm tràn lan là tạo ra “nhu cầu giả” nhằm bắt học sinh học thêm với mục đích kiếm lợi. Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ sẽ chỉ đạo:
- Sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức và quản lý dạy thêm, học thêm để thống nhất thực hiện trong cả nước.
- Hoàn thiện nội dung, chương trình và SGK đổi mới giáo dục phổ thông theo hướng phù hợp với yêu cầu, điều kiện dạy và học ở các vùng miền, tăng cường cơ sở vật chất, chuyển dần các trường có điều kiện sang học 2 buổi/ngày (trước hết là đối với tiểu học).
- Đổi mới kiểm tra, đánh giá, thi cử, tuyển sinh theo hướng bám sát chương trình, SGK; giảm bớt số kỳ thi và đơn giản hoá hình thức thi. Đề nghị Quốc hội cho phép trong năm 2005 bỏ kỳ thi tốt nghiệp tiểu học. Tiếp tục thực hiện lộ trình cải tiến thi cử, tuyển sinh theo hướng sử dụng kết quả kỳ thi tốt nghiệp cuối cấp để xét tuyển vào lớp đầu của cấp học kế tiếp; mở rộng quy mô ĐH, CĐ và cải tiến kỳ thi tuyển sinh, góp phần hạn chế dạy thêm, học thêm tràn lan và để giảm rõ rệt tình trạng căng thẳng, tốn kém cho học sinh, gia đình và xã hội.
- Tăng cường các biện pháp giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ giáo viên; xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm. Đồng thời làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền để xã hội, học sinh, phụ huynh nhận thức đúng và cùng phối hợp tham gia giải quyết vấn đề này.
- Về lâu dài, Chính phủ sẽ chỉ đạo thực hiện các giải pháp ở tầm vĩ mô để giải quyết một cách cơ bản tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan. Đó là phát triển hệ thống giáo dục đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, nhất là nhu cầu học ĐH; tiếp tục điều chỉnh, bổ sung chính sách lao động và tiền lương, bảo đảm đời sống tốt của đội ngũ giáo viên.
Dạy thêm, học thêm tồn tại chủ yếu ở đô thị, vùng kinh tế phát triển, có phần là nhu cầu chính đáng của nhiều học sinh và phụ huynh học sinh. Vì vậy, đây là một vấn đề phức tạp và rất khó giải quyết. Việc khắc phục các tiêu cực trong dạy thêm, học thêm phải là nỗ lực chung của các cấp chính quyền và của toàn xã hội, trong đó ngành giáo dục phải chịu trách nhiệm chính trong việc đề xuất biện pháp và tổ chức thực hiện.
6.2. Đối với các tiêu cực trong việc cấp phát, sử dụng văn bằng, chứng chỉ và đánh giá kết quả học tập không đúng thực chất
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với các trường hợp vi phạm quy chế thi cử, cấp phát văn bằng, chứng chỉ. Từ năm 2005, thường xuyên tổ chức rà soát, kiểm tra, chấn chỉnh công tác quản lý, lưu trữ hồ sơ về thi cử, cấp phát văn bằng, chứng chỉ.
- Quy định cụ thể hơn trách nhiệm của người đứng đầu các cơ sở giáo dục trong việc bảo đảm quy trình và chất lượng đào tạo cũng như trong việc cấp phát văn bằng tương ứng với trình độ của người học, đặc biệt là ở các hệ đào tạo không chính quy.
- Kiên quyết xử lý nghiêm minh các trường hợp sao chép luận văn, luận án; phối hợp với các cấp chính quyền địa phương thanh tra, kiểm tra và xử lý những tổ chức và cá nhân mua bán, viết thuê luận văn, luận án.
- Xây dựng cơ chế đánh giá, sử dụng cán bộ công chức căn cứ vào trình độ, năng lực và kết quả hoạt động thực tiễn, khắc phục tình trạng tuyển chọn, đề bạt thiên vào bằng cấp, góp phần ngăn chặn tận gốc tình trạng “học giả, bằng thật”.
Phần thứ ba
KIẾN NGHỊ VỚI QUỐC HỘI
1. Đề nghị Quốc hội xem xét các giải pháp nêu trên, trong quá trình sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; đồng thời chỉ đạo và đưa vào kế hoạch xây dựng luật và pháp lệnh một số luật khác về giáo dục như Luật Giáo viên, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp để hoàn chỉnh hệ thống pháp lý cho các hoạt động giáo dục.
2. Đề nghị Quốc hội phê duyệt ngân sách giáo dục theo hướng mức tăng hàng năm phù hợp với mức tăng quy mô giáo dục bảo đảm tỷ lệ ngân sách giáo dục đạt không dưới 18% ngân sách nhà nước vào năm 2005 và không dưới 20% vào năm 2010.
3. Đề nghị Quốc hội xem xét, tạo điều kiện để Chính phủ thực hiện một số chủ trương sau đây :
- Điều chỉnh phân bổ ngân sách giáo dục theo hướng tập trung ưu tiên đầu tư cho giáo dục phổ cập, giáo dục vùng dân tộc và vùng khó khăn, thực hiện chính sách xã hội, hỗ trợ con em các gia đình nghèo và các chương trình mục tiêu ưu tiên khác.
- Ban hành chính sách mới về học phí, học bổng áp dụng từ năm học 2005-2006, trong đó cho phép tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo vào học phí. Đồng thời, Nhà nước tiếp tục có chính sách ưu tiên, hỗ trợ để cho con em các gia đình thuộc diện chính sách, gia đình nghèo và học sinh xuất sắc có điều kiện học tập tốt hơn.
- Xây dựng lộ trình giảm bớt một số kỳ thi; trước mắt bỏ kỳ thi tốt nghiệp tiểu học và văn bằng tốt nghiệp tiểu học kể từ năm 2005.
4. Đề nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết về giáo dục:
- Khẳng định những thành tựu, bất cập và yếu kém trong lĩnh vực giáo dục.
- Khẳng định chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp và những điều kiện thực hiện để tiếp tục đổi mới giáo dục mạnh hơn trong thời gian tới.
- Kêu gọi toàn xã hội tham gia chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục đúng với yêu cầu là quốc sách hàng đầu.
*
* *
Sau gần 8 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII), 5 năm đưa Luật Giáo dục vào cuộc sống và hơn 3 năm triển khai thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, nền giáo dục của nước ta đã có những thành tựu rất đáng tự hào. Tuy vậy, trong giáo dục vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém, khuyết điểm đang gây lo lắng, bức xúc trong xã hội. Để giải quyết các vấn đề đó, đông đảo cử tri và các vị Đại biểu Quốc hội đã đóng góp ý kiến xây dựng bổ sung các chủ trương, chính sách, biện pháp tổ chức và quản lý. Chính phủ trân trọng tiếp thu và đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp như đã trình bày ở trên. Bên cạnh đó, cũng còn một số vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi có quyết định chính thức. Sau khi Quốc hội ra Nghị quyết về giáo dục, Chính phủ sẽ triển khai mạnh mẽ, kiên quyết chỉ đạo, điều hành nhằm phát huy các mặt tích cực, khắc phục nhanh chóng những bất cập, yếu kém và khuyết điểm, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt để giáo dục tiếp tục phát triển, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Kính trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến.
Tin liên quan
Báo cáo thẩm tra về tình hình giáo dục của UB Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng QH |