221
482
Diễn đàn
diendan
/giaoduc/diendan/
854430
Thiếu tự chủ, ĐH tự đánh mất mình
1
Article
447
Giáo dục
giaoduc
/giaoduc/
Thiếu tự chủ, ĐH tự đánh mất mình
,

(VietNamNet) - Có lẽ không ai lại không hiểu được chân lý đơn giản “thiếu quyền thì dù muốn hay không, cũng dẫn đến tình trạng vô trách nhiệm”. Mà thiếu quyền tự chủ và trách nhiệm với chính mình và với xã hội cũng có nghĩa, đại học đã tự đánh mất mình.

PGS. Đào Công Tiến (Nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế TP.HCM) bày tỏ trong bài viết dưới đây.

"Tự chủ ĐH": Việt Nam ở top sau cùng!

PGS Đào Công Tiến

Nói đến “tự chủ ĐH” (cũng có nơi gọi “tự trị ĐH”) là nói đến mối quan hệ trong quản lý giáo dục ĐH với một bên là sự can thiệp của hệ thống hành chính nhà nước (chính phủ và chính quyền cấp dưới) và một bên là quyền và trách nhiệm của các chủ thể giáo dục ĐH. Nó chủ yếu bao gồm các nhà giáo, SV cùng với những tổ chức hành động của họ là trường và các bộ phận trong trường ĐH.

Trên thế giới, sự tăng quyền tự chủ cho các cơ sở ĐH ở khắp nơi đã trở thành một xu thế lớn có tính cách xuyên suốt trong mọi nỗ lực cải cách ĐH. Tự chủ ĐH đã và đang hòa cùng lộ trình vận hành của mô thức tổ chức xã hội hiện đại - kinh tế thị trường, dân chủ và pháp quyền.

Ở Việt Nam, chúng ta có bài học quý giá từ cách xử lý mối quan hệ quản lý trong đổi mới kinh tế với việc tăng cường quyền và trách nhiệm cho các chủ thể kinh tế.

Quyền tự chủ ĐH tại Việt Nam vẫn đang trong tình trạng tụt hậu và thấp kém, so le và chưa tương ứng với các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế vốn đã có những bước trưởng thành từ cải cách và mở cửa trong 20 năm đổi mới...

Có thể kể: việc thừa nhận kinh tế nông hộ là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn; việc phá bỏ rào cản “ngăn sông cấm chợ” để dành quyền “tự chủ cho người sản xuất và người tiêu dùng, người bán và người mua”; cũng như “đặt doanh nghiệp trước thị trường và hành lang pháp lý để hành xử”...

Những điều này cho thấy cái “mạch” chung của công cuộc cải cách kinh tế là mở rộng quyền tự chủ, đã và đang dẫn đến nhiều kết quả tốt đẹp thấy rõ, góp phần giải phóng sức sản xuất.

Bởi một lẽ đơn giản là sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm đã thực sự khơi dậy tính năng động sáng tạo không chỉ trong kinh tế mà còn trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác của đời sống xã hội.

Những bài học như thế đã đủ sức thuyết phục để xác nhận thêm nữa sự cần thiết phải tiếp tục lộ trình đổi mới theo các hướng căn bản gồm kinh tế thị trường, dân chủ và pháp quyền.

Vì vậy, để chấn hưng nền giáo dục ĐH trong nước, cũng không thể bỏ qua mà không tham khảo bài học như vừa nêu trên, tức bài học tự chủ và trách nhiệm của các chủ thể kinh tế trong công cuộc đổi mới đã và đang diễn ra một cách mạnh mẽ.

Câu hỏi đặt ra: vấn đề quan trọng và đã từng được giới ĐH nêu lên từ nhiều năm trước, nhưng hiện thực “tự chủ ĐH” ở Việt Nam cho tới bây giờ đã đạt được đến đâu, trên thực tế và so với bảng xếp hạng chung của ngành ĐH thế giới?

Tuy hãy còn chưa đủ cơ sở, nhất là những so sánh có tính định lượng để có được lời giải hoàn toàn chuẩn xác, nhưng phần lớn những người am hiểu và tâm huyết trong giới ĐH đều cho rằng về “tự chủ ĐH”, Việt Nam đang còn đứng ở vị trí rất thấp, trong số các ĐH ở “top” sau cùng.

Nếu đặt trên mặt bằng tiến hóa chung của xã hội, nhiều ý kiến cũng thống nhất thừa nhận rằng quyền tự chủ ĐH tại Việt Nam vẫn đang trong tình trạng tụt hậu và thấp kém, so le và chưa tương ứng với các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế vốn đã có những bước trưởng thành từ cải cách và mở cửa trong 20 năm đổi mới.

ĐH Việt Nam đang đánh mất mình

Có lẽ không ai lại không hiểu được chân lý đơn giản “thiếu quyền thì dù muốn hay không cũng dẫn đến tình trạng vô trách nhiệm”. Mà thiếu quyền tự chủ và trách nhiệm với chính mình và với xã hội thì ĐH  tự đánh mất mình rồi.

Điều này không còn hoàn toàn là cảnh báo, mà trong một chừng mực, đã là thực tế diễn ra trong đời sống của ĐH Việt Nam.  

Mấy đơn cử sau đây phần nào cho thấy cảm nhận điều đó: Vẫn thực hiện một cách máy móc cơ chế “biên chế, niên chế” với nhiệm vụ và điều kiện làm việc được quy định từ trên, đã làm cho các cơ sở ĐH thiếu quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội trong việc xây dựng đội ngũ của chính mình.

Với không ít lĩnh vực học thuật được đưa vào chương trình giáo dục ĐH như là những “phần cứng", ngay cả Bộ GD - ĐT cũng không có quyền thay đổi, nói gì đến tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong nghiên cứu, sáng tạo của trường, của nhà giáo ĐH để sửa đổi bổ sung hoàn thiện

Tương tự như vậy, việc duy trì quá lâu cơ chế bao cấp từ ngân sách Nhà nước đã làm cho các cơ sở ĐH, nhất là ĐH công lập mất sự tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc tạo nguồn và sử dụng tài chính của chính mình để rồi phải chấp nhận là ĐH nghèo khó và xơ cứng trong đời sống vật chất.

Thiếu quyền tự chủ, mọi hoạt động sáng tạo của công dân trong tất cả mọi ngành nghề đều sẽ bị bóp nghẹt hoặc không thể phát huy đúng mức, điều nầy lại càng đúng hơn khi đem áp dụng vào phạm vi, môi trường ĐH, nơi đòi hỏi có nền học thuật cao nhất nước vốn dĩ chỉ có thể xây dựng được trên cơ sở tổng hợp kết quả học tập - nghiên cứu khách quan của những chủ thể hoạt động hoàn toàn tự do.

Điều này cũng có nghĩa cần phải giảm bớt ở mức độ cho phép sự can thiệp nhà nước và ảnh hưởng của những nhu cầu chính trị thái quá vào môi trường ĐH.

Đây không phải chuyện dễ trong điều kiện thực tế và cách điều hành công việc còn khá lạc hậu, thậm chí lạc lõng vốn có ở nước ta, bởi nếu tăng quyền tự chủ ở ĐH thì phải giảm bớt quyền lực của cấp chủ quản, và làm giảm luôn mối quan hệ truyền thống giữa Nhà nước và các trường ĐH.

Nếu lấy mức độ can thiệp của chính phủ và chính quyền cấp dưới để làm thước đo “tự chủ ĐH” thì đã có nhiều cuộc khảo sát ghi nhận rằng các trường ĐH ở Anh, Mỹ có mức tự chủ cao nhất, kế đến là ở các nước EU, sau cùng là châu Á. Trong 100 trường ĐH danh giá nhất thế giới, không dưới 50 %  là những trường ở Anh, Mỹ,  có mức độ tự chủ cao. Trong ảnh: HSSV Việt Nam tìm hiểu giáo dục Hoa Kỳ tại một triển lãm du học. Ảnh: Lê Anh Dũng

 

Trong việc “tự chủ hóa” giáo dục ĐH, sự giải phóng về tư tưởng trong chiều hướng tôn trọng quyền tự do học tập - nghiên cứu, tự do phát biểu chính kiến khoa học trong giảng dạy là quan trọng nhất. Nghĩa là phải có sự cởi mở, cởi trói tư tưởng, mạnh dạn bỏ bớt những hệ tư tưởng trong lịch sử có lúc cần thiết nhưng nay ít có tác dụng đóng góp vào hoạt động thực tiễn; cải cách, điều chỉnh chương trình và cách dạy cho các bộ môn thuộc khoa học xã hội, đặc biệt ở hai môn triết học và kinh tế-chính trị.

Những suy tư bất vụ lợi, những thái độ tri thức đúng đắn, chỉ có thể nảy nở trong một bầu không khí tự do cởi mở. Với sự tự chủ cần thiết đó, ĐH mới đúng là môi trường học tập của người lớn, ở đó, SV không bị xem như những kẻ nô lệ nhỏ bé chỉ biết vâng vâng dạ dạ, và mới có thể góp phần mang lại những biến cải xã hội có tính nhân văn, tiến bộ.

Lề lối tổ chức để cho các cơ quan công quyền can thiệp quá nhiều do vậy thường gây trở ngại rất lớn cho sinh hoạt cũng như cho sự phát triển vững chắc lâu dài của nền ĐH.

Thiếu sự tự chủ về quản trị hành chính nên ĐH hiện nay phải đi qua quá nhiều thủ tục rườm rà của nhiều cơ quan nhà nước khi muốn cải tạo cơ sở, sửa đổi chương trình giảng dạy, mua sắm những đồ dùng dạy học cần thiết.

Không có tự chủ về quản trị tài chính nên ĐH không có quyền sử dụng ngân sách của mình một cách trực tiếp vào sự điều hành hay phát triển, không được quyền tiếp nhận trực tiếp các nguồn tài trợ từ bên ngoài, dù bất vụ lợi.

Không có sự tự trị về nhân viên nên ĐH không có quyền quyết định về biên chế cần thiết cho ban giảng huấn và những thành phần khác, không có khả năng quyết định sự thưởng phạt hoặc thuyên chuyển sàng lọc cán bộ nhân viên tinh giảm bộ máy tùy theo nhu cầu thực tế của từng mỗi nhà trường.

Giảm "bộ tứ", tăng hội đồng trường

Sự cải cách ĐH theo hướng tăng quyền tự chủ và đề cao trách nhiệm cho nhà trường, cho người dạy, người học vì vậy đồng thời phải hướng đến cả ba mặt học vụ, hành chính và tài chính. Còn cách tự chủ như thế nào thì còn tùy vào hoàn cảnh cụ thể và trình độ phát triển ĐH ở mỗi nước.

Theo ý kiến của phần đông các chuyên gia, hai mặt mà Nhà nước vẫn cần có sự can thiệp là hành chính - tài chính và “các chuẩn mực học thuật”.

Nhưng sự can thiệp hoàn toàn không có nghĩa gây khó khăn cản trở mà chỉ giám sát và hỗ trợ để phát huy những mặt tốt, hạn chế những mặt kém hoặc thậm chí lạm dụng do sự tự chủ ĐH có thể mang lại.

Điều này có nghĩa là về mặt hành chính - tài chính, Nhà nước - khi cần thiết - có thể quy định số lượng SV (để cung không vượt cầu), đóng cửa hoặc sáp nhập các cơ sở ĐH, kiểm toán tài chính, quy định mức học phí và tài trợ cho SV, yểm trợ mặt bằng và tài chính cho các ĐH tư. Mặt thứ hai bao gồm việc theo dõi chất lượng giảng dạy, công nhận các chương trình và trường ĐH.

Can thiệp về hành chính - quản trị hoàn toàn không có nghĩa là tạo ra cơ chế có quá nhiều tổ chức chính trị theo kiểu “bộ tứ” thực tế cho thấy thường hạn chế quyền hạn và cung cách điều hành sáng tạo của các vị hiệu trưởng.

Thay vào đó, nên có một hội đồng trường thật mạnh và hoạt động chất lượng, hiệu quả, với sự tham gia của SV và cả nhiều đại diện khác bên ngoài nhà trường.

Quá trình cải cách giáo dục ĐH còn rất nhiều việc phải làm. Trong đó, nâng cao quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội cho các cơ sở ĐH cho người dạy, người học là giải pháp có tính đột phá, vì đó là giải pháp của nhiều giải pháp.

  • PGS Đào Công Tiến (Nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế TP.HCM)

Ý kiến của bạn:

,
Ý kiến của bạn
Ý kiến bạn đọc
,
,
,
,