221
482
Diễn đàn
diendan
/giaoduc/diendan/
861432
Bộ trưởng Giáo dục đăng đàn Quốc hội
1
Article
447
Giáo dục
giaoduc
/giaoduc/
Bộ trưởng Giáo dục đăng đàn Quốc hội
,

(VietNamNet) -Sáng 7/11, Bộ trưởng Bộ GD - ĐT đã báo cáo trước Quốc hội về đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề. Dưới đây, VietNamNet giới thiệu nội dung bản báo báo này.

>>Báo cáo kết quả giám sát của Ủy ban Văn hoá Giáo dục Thanh thiếu niên nhi đồng của Quốc hội

 >>Báo cáo của Bộ trưởng Giáo dục còn...thiếu tiền!

Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân đang lắng nghe đại biểu Quốc hội thảo luận. Ảnh: CTV

Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để tạo ra và phát huy lợi thế cạnh tranh quốc tế của Việt Nam về nguồn lực con người trong quá trình toàn cầu hoá. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, của hệ thống chính trị xã hội, của toàn dân, trong đó các nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục (NG&CBQLGD) là những người trực tiếp thực hiện và vì vậy giữ vai trò quyết định trực tiếp đến chất lượng và sự phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân. Tổ chức Văn hoá và giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) cũng đã khuyến cáo: Mọi cuộc cải cách giáo dục đều bắt đầu từ người giáo viên.

Những năm qua, chúng ta đã xây dựng được đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ngày càng đông đảo và phần lớn có phẩm chất đạo đức, ý thức chính trị tốt, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng được nâng cao. Đội ngũ này cơ bản đã đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.

Tuy nhiên, trước những yêu cầu của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đội ngũ NG&CBQLGD một mặt phải tiếp tục phát huy hiệu quả hơn những ưu điểm, mặt khác phải được phát triển và nâng cao chất lượng, khắc phục nhanh chóng và kiên quyết những hạn chế, yếu kém.

Căn cứ Công văn số 1701/VPQH-TH ngày 7/9/2006 của Văn phòng Quốc hội về việc chuẩn bị Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khoá XI, tại Kỳ họp thứ 10 này, Chính phủ xin báo cáo Quốc hội  về tình hình đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề để Quốc hội xem xét, cho ý kiến. Báo cáo tập trung đánh giá thực trạng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, những ưu điểm, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém; đồng thời trình bày mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp để phát triển đội ngũ NG&CBQLGD trong những năm tới.

Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân trao đổi với giáo viên trường THPT Lê Hồng Phong (Nam Định). Ảnh: Hoàng Lê

  

Phần thứ nhất: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ NHÀ GIÁO VÀ CÁN BỘ QUẢN LÝ GIÁO DỤC 

I. ĐỘI NGŨ NHÀ GIÁO

Tính đến năm học 2005-2006, cả nước có khoảng 997.700 nhà giáo, bao gồm 155.700 giáo viên mầm non (chiếm 15,6%), 762.200 giáo viên phổ thông (76,4%), 13.900 giáo viên trung cấp chuyên nghiệp (1,4%), 47.700 giảng viên đại học, cao đẳng (chiếm 4,8%), 11.200 giáo viên dạy nghề (chiếm 1,1%) và có khoảng 7.000 giáo viên cơ hữu ở các trung tâm giáo dục thường xuyên (chiếm 0,7%). Các trường công lập có khoảng 844.000 nhà giáo (chiếm 84,6%), các trường ngoài công lập có khoảng 153.700 nhà giáo (chiếm khoảng 15,4%). Tính trung bình trong cả nước so với năm học 2001-2002, số lượng nhà giáo tăng 11% (khoảng 108.900 người)

1. Ưu điểm và đóng góp của đội ngũ nhà giáo

Trong những năm gần đây, nhờ sự quan tâm của Đảng, sự đầu tư và chính sách của Nhà nước, đội ngũ nhà giáo được tăng về số lượng và chất lượng, giảm bớt sự bất hợp lý về cơ cấu. Nhìn chung, hầu hết nhà giáo có ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, giữ gìn nhân cách, sống gương mẫu, lành mạnh, trong sáng, tích cực học tập nâng cao trình độ; có tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ. Đại đa số nhà giáo được đào tạo đạt trình độ chuẩn. Năng lực sư phạm của phần lớn nhà giáo được nâng lên, bước đầu tiếp cận được yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. Đa số giáo viên tiểu học và trung học cơ sở nhận thức được và bước đầu đã vận dụng có kết quả các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học mới. Việc bồi dưỡng năng lực sư  phạm, ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các phương tiện thiết bị hiện đại để đổi mới phương pháp dạy học ở nhiều trường đại học đã được chú trọng, trình độ ngoại ngữ ngày càng được cải thiện.

Những nỗ lực của đội ngũ nhà giáo đã góp phần quan trọng vào việc đưa các đội tuyển học sinh Việt Nam ở trình độ phổ thông, của học sinh học nghề, của sinh viên các đại học ngày càng đạt được những giải cao của khu vực và quốc tế. Từ năm 1974 đến năm 2006, nước ta đã có 432 học sinh/tổng số 507 học sinh dự các cuộc thi Olympic quốc tế đạt giải (đạt tỷ lệ 85,2%), trong đó 99 huy chương vàng, 145 huy chương bạc, 166 huy chương đồng, 22 Bằng khen. Nhiều học sinh đạt giải cao với mức điểm tuyệt đối, nhiều đội tuyển được xếp thứ hạng rất cao, được bạn bè trên thế giới công nhận, nể phục.

Học sinh và sinh viên Việt Nam ra nước ngoài học, nhiều người đã đạt được kết quả rất tốt, được nhà trường và các nước thừa nhận. Nhiều người đã đại diện tiêu biểu, xứng đáng cho giới thanh niên Việt Nam về cả phẩm chất đạo đức và chuyên môn.

Có thể khẳng định mặc dầu còn bất cập trong chính sách nói chung và chính sách tiền lương nói riêng đối với đội ngũ nhà giáo nhưng với nỗ lực to lớn và lòng yêu nghề, đội ngũ này đã triển khai có hiệu quả các hoạt động giáo dục đào tạo ở mọi cấp học, ở mọi miền của đất nước và đã góp phần quyết định tạo ra nguồn nhân lực cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, làm nên  thành tích rất đáng tự hào của đất nước trong 20 năm đổi mới.  

2. Hạn chế, yếu kém

So với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu mới của đất nước, số lượng, cơ cấu đội ngũ nhà giáo còn nhiều bất hợp lý, chất lượng còn yếu kém. Giáo viên phổ thông ở miền núi, vùng dân tộc, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn hiện vẫn còn thiếu. Nhiều địa phương còn thiếu giáo viên âm nhạc, mỹ thuật, thể dục, công nghệ, tin học, giáo dục công dân. Một bộ phận giáo viên mầm non lớn tuổi, chưa được đào tạo cơ bản không còn phù hợp với yêu cầu đổi mới của giáo dục mầm non.

Yếu kém lớn nhất của giáo viên phổ thông hiện nay vẫn là phương pháp dạy học, phương pháp đánh giá học sinh và việc dạy chưa đảm bảo yêu cầu học đi đôi với hành. Phương pháp dạy còn nặng về truyền đạt kiến thức, chưa phát huy tính chủ động và khuyến khích sự vận dụng sáng tạo của học sinh, sinh viên. Chưa chú trọng việc hướng dẫn hình thành năng lực tự học của học sinh, sinh viên và khả năng làm việc tập thể, làm việc theo nhóm.

Khả năng giảng dạy thực hành của giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề còn hạn chế. Đội ngũ giảng viên ở các trường đại học, cao đẳng còn rất thiếu, nhất là đối với những chuyên ngành đào tạo mới, môn học mới. Đội ngũ nhà giáo đầu ngành bị hẫng hụt, không kịp bù đắp số nghỉ hưu. Năng lực, trình độ, khả năng cập nhật kiến thức mới, sử dụng ngoại ngữ; quy mô và chất lượng nghiên cứu khoa học phục vụ nhu cầu của thực tiễn lao động sản xuất và đào tạo, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy và nghiên cứu khoa học, quản lý giáo dục của đội ngũ giảng viên còn rất hạn chế. Nhìn chung trình độ (đặc biệt là trình độ nghiên cứu khoa học và công nghệ) của giảng viên đại học của nước ta thấp trong tương quan với các nước trên thế giới, ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục đại học. Hiện tại 55% giảng viên đại học, cao đẳng chỉ có trình độ cử nhân, kỹ sư, chỉ có13% là tiến sĩ, số phó giáo sư  là hơn 4%, số giáo sư 1%. Các tỷ lệ này ở những vùng khó khăn còn thấp hơn rất nhiều. Đội ngũ giảng viên giỏi kế cận chưa được chuẩn bị để thay thế đội ngũ giảng viên đầu ngành là giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ có nhiều kinh nghiệm nay đã lớn tuổi.

Một bộ phận nhỏ nhà giáo nhận thức còn hạn chế, thiếu gương mẫu, vi phạm đạo đức lối sống và chuẩn mực của người thầy, gây bức xúc và lo lắng của nhân dân, không đấu tranh, thậm chí còn bị lôi cuốn, thoả hiệp, tham gia vào những tiêu cực trong thi cử, chấm luận văn, luận án tốt nghiệp. 

II. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Tính đến nay, cả nước có 10.400 cán bộ quản lý giáo dục làm việc ở Bộ, Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội; khoảng 80.000 cán bộ quản lý giáo dục (Ban Giám hiệu các trường, Ban chủ nhiệm các khoa, lãnh đạo các phòng, ban) làm việc tại gần 35.000 trường học các loại, trong đó có 311 trường đại học, cao đẳng, 292 trường trung cấp chuyên nghiệp, 637 trường dạy nghề và trung tâm dạy nghề, 914 trung tâm giáo dục thường xuyên và Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp; Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục chiếm khoảng 10% trong tổng số cán bộ, công chức, viên chức  ngành giáo dục, trong đó khoảng 18% ở giáo dục mầm non, 65% ở giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên, 6% ở giáo dục nghề nghiệp, cao đẳng, đại học, 11% ở cơ quan quản lý giáo dục các cấp.

1. Ưu điểm và đóng góp của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục

Phần lớn cán bộ quản lý giáo dục là những nhà giáo giỏi được bổ nhiệm, điều động sang làm công tác quản lý, có trình độ chuyên môn và sư phạm cao, có kinh nghiệm trong công tác giáo dục, có bản lĩnh chính trị,  phẩm chất, đạo đức tốt, tổ chức thực hiện nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước nói chung và tổ chức, quản lý quá trình đào tạo ở mọi bậc học và mọi miền đất nước. Đội ngũ này đã tham mưu tích cực và hiệu quả cho cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp trong phát triển giáo dục phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở địa phương. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý giáo dục ở một bộ phận cán bộ quản lý có tiến bộ, nhất là ở các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp.

2. Hạn chế, yếu kém

Đa số cán bộ quản lý giáo dục chưa được đào tạo có hệ thống về quản lý, làm việc dựa vào kinh nghiệm cá nhân, tính chuyên nghiệp thấp. Năng lực điều hành, quản lý của một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục còn bất cập trong công tác tham mưu, xây dựng chính sách, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và thực thi công vụ. Kiến thức về pháp luật, về tổ chức bộ máy, về quản lý nhân sự, nhất là về quản lý tài chính còn nhiều hạn chế dẫn đến lúng túng trong thực thi trách nhiệm và thẩm quyền, đặc biệt khi được Nhà nước phân quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Phần lớn cán bộ quản lý giáo dục còn bị hạn chế về trình độ ngoại ngữ, kỹ năng sử dụng và ứng dụng công nghệ thông tin.

Một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục còn chạy theo thành tích, chưa thực sự chuyên tâm với nghề nghiệp, chưa làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao. Một bộ phận nhỏ cán bộ quản lý giáo dục buông lỏng quản lý, không đấu tranh với tiêu cực, thậm chí còn thoả hiệp, tham gia vào các hiện tượng tiêu cực, tiếp tay cho người học gian dối trong học tập, thi cử.  

III. HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TRƯỜNG SƯ PHẠM VÀ TRƯỜNG CÁN BỘ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

1. Hoạt động của các trường sư phạm

Hệ thống các trường, khoa sư phạm đã và đang được củng cố, phát triển. Hiện có 14 trường đại học sư phạm, 56 trường cao đẳng sư phạm, 6 trường trung cấp chuyên nghiệp, 19 khoa sư phạm trong các trường đại học khác. Trong đó có 15 trường do Bộ Giáo dục và Đào tạo trực tiếp quản lý và 61 trường do địa phương quản lý. Mỗi tỉnh, thành đều có 1 trường (hoặc khoa) sư phạm đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học và trung học cơ sở.

Quy mô đào tạo giáo viên ở tất cả các cấp học được mở rộng. Số lượng giáo viên các cấp được đào tạo đã từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển về số lượng và đồng bộ về cơ cấu đội ngũ giáo viên mầm non, phổ thông.

Chất lượng đào tạo giáo viên đang dần được nâng cao. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành mục tiêu, kế hoạch, nội dung, chương trình nâng chuẩn đào tạo giáo viên, bao gồm chương trình đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học có trình độ cao đẳng, đại học. Các trường sư phạm bước đầu chú trọng đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập, nghiên cứu khoa học giáo dục, coi trọng hơn rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Các trường đại học, cao đẳng sư phạm đã xây dựng trường hoặc cơ sở thực hành sư phạm.

Bên cạnh các ưu điểm nói trên, các trường sư phạm còn có những hạn chế, yếu kém:

- Còn có sự bất cập lớn giữa yêu cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ở tất cả các cấp và những hạn chế về điều kiện đội ngũ, cơ sở vật chất, trang thiết bị, đặc biệt đối với những vùng khó khăn.

- Nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo trong các trường sư phạm còn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới của giáo dục phổ thông; chưa thể hiện thật đầy đủ yêu cầu đào tạo người thầy để giáo dục thế hệ trẻ. Công tác nghiên cứu khoa học còn bị hạn chế; phương pháp đào tạo vẫn nặng về kiểu truyền thụ một chiều.

- Chưa gắn kết công tác đào tạo với sử dụng, ở các khu vực thuận lợi số sinh viên sư phạm tốt nghiệp ra trường chưa được sử dụng hết, trong khi đó ở các khu vực khó khăn còn thiếu giáo viên.

- Mất cân đối trong cơ cấu đào tạo ở các trường, khoa sư phạm, giữa đào tạo giáo viên các môn văn hoá cơ bản với việc đào tạo giáo viên các môn học như   thể dục, nghệ thuật, công nghệ, tin học, giáo dục công dân, giáo dục quốc phòng.

2. Hoạt động của các trường cán bộ quản lý giáo dục

Hiện nay, ngoài Học viện Quản lý giáo dục và Trường Cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo II trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều có các cơ sở đào tạo - bồi dưỡng CBQLGD, trong đó có 4 trường CBQLGD của Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Phú Thọ, Thái Bình, 33 khoa quản lý giáo dục thuộc các trường đại học, cao đẳng sư phạm địa phương, 2 trung tâm đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý thuộc trường đại học của tỉnh Thanh Hoá và thành phố Hải Phòng.

Hằng năm hoặc từng thời kỳ của chu kỳ bồi dưỡng, Bộ Giáo dục và đào tạo đã xây dựng kế hoạch và quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD. Từ năm 1990, công tác bồi dưỡng CBQLGD được xây dựng trong kế hoạch chung về công tác bồi dưỡng giáo viên và CBQLGD.

Từ năm 1990 trở lại đây, tổ chức thực hiện thí điểm chương trình đào tạo Hiệu trưởng trường tiểu học. Năm 1995, triển khai chương trình đào tạo thạc sĩ chuyên ngành quản lý giáo dục. Từ năm 1997 đến nay, các chương trình đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD sau đây đã được xây dựng:

Chương trình bồi dưỡng CBQLGD trường mầm non, trường Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, Dân tộc nội trú, Trung cấp chuyên nghiệp, Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung tâm  kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp, Đại học và Cao đẳng (khoa, phòng, ban), thanh tra viên giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, nữ CBQLGD. Chương trình bồi dưỡng cán bộ quản lý trường tiểu học đã được thực hiện thống nhất trong toàn quốc.

Bên cạnh những ưu điểm nói trên, công tác đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD còn có những hạn chế, yếu kém sau:

Về mặt tổ chức, hiện nay loại hình tổ chức của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD còn chưa được thống nhất trong cả nước (nơi là trường cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo, nơi là trường bồi dưỡng giáo viên, nơi là khoa, nơi là trung tâm, thậm chí có địa phương chỉ có tổ chuyên môn trong trung tâm giáo dục thường xuyên hoặc là tổ công tác trong Sở Giáo dục và Đào tạo).  

Hình thức bồi dưỡng của các trường cán bộ quản lý giáo dục chủ yếu là tập trung và tại chức, chưa tổ chức được đào tạo từ xa, chưa ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đào tạo, bồi dưỡng... Nội dung đào tạo, bồi dưỡng còn nặng về lý thuyết, chưa chú trọng bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng quản lý. Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng có được chú ý cải tiến song chưa chú trọng nhiều đến thực hành, thực tế và phát huy tính tích cực và khai thác kinh nghiệm thực tế của người học. Đặc biệt chất lượng đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn, kỹ năng thực hành còn thấp, không tạo được chuyển biến mạnh trong dạy và học ở các trường.

Chưa chú trọng đúng mức đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học. Đặc biệt chưa có định hướng trong việc đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD các trường ngoài công lập.   

IV. CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH VÀ ĐIỀU KIỆN LÀM VIỆC CỦA NG&CBQLGD

1. Đối với nhà giáo

Trong bối cảnh chung của hệ thống lương cán bộ công chức, lương của giáo viên đã được từng bước nâng cao trong 5 năm gần đây, song nhìn chung chưa đảm bảo cuộc sống và chưa phù hợp với đặc điểm làm việc của các nhà giáo, đặc biệt là ở bậc phổ thông. Riêng đối với NG&CBQLGD làm việc ở các trường chuyên biệt, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng chế độ phụ cấp với mức bằng 70% lương đã có tác dụng tốt để chăm lo đời sống các thầy cô giáo là người địa phương.

Chính sách bồi dưỡng giáo viên đã được cụ thể hoá trong chương trình mục tiêu quốc gia và hiện đang bước vào chu kỳ ba. Với các mục tiêu đặt ra là bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên theo 5 năm/1 chu kỳ, xây dựng đội ngũ giáo viên cốt cán cho các cấp học, đa dạng hoá loại hình bồi dưỡng giáo viên. Hằng năm, tất cả các giáo viên phổ thông đã được tham dự các lớp bồi dưỡng nghề nghiệp. Nhiều địa phương đã có các chính sách khuyến khích các nhà giáo tiếp tục học tập, nâng cao trình độ để đạt và vượt chuẩn giáo viên.

Việc thực hiện chế độ miễn học phí đối với sinh viên các trường sư phạm, việc sinh viên tốt nghiệp sư phạm và giáo viên đi nhận công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được hưởng phụ cấp thu hút và các chế độ, chính sách khuyến khích khác theo quy định tại Nghị định số 35/2001/NĐ-CP và nay là Nghị định số 61/2006/NĐ-CP thu hút các sinh viên giỏi vào các trường sư phạm, góp phần tạo ra một lớp giáo viên mới cho ngành.

Điều kiện làm việc của các nhà giáo nhìn chung còn rất thiếu thốn, 30 năm qua hầu như chưa được cải thiện. ở tuyệt đại đa số các trường phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề và đại học, cao đẳng, các nhà giáo chưa có một bộ bàn ghế riêng để ngồi và làm việc tại trường, tại khoa; chỉ có một phòng họp giáo viên chung cho cả trường hoặc cả khoa. Hầu hết các giáo sư, phó giáo sư ở các trường đại học, cao đẳng cũng chưa có một chỗ làm việc riêng, chưa có kinh phí để mua sách, tạp chí chuyên môn quốc tế cũng như đi dự các hội nghị chuyên môn ở nước ngoài.

Nhà ở nội trú công vụ cho NG&CBQLGD công tác ở vùng sâu, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hầu như chưa có; nếu có thì rất tạm bợ, chủ yếu là tranh tre, nứa lá.

2. Đối với cán bộ quản lý giáo dục

Nhìn chung, việc sử dụng và bố trí CBQLGD được thực hiện đúng chuyên môn, sở trường, khả năng, tạo điều kiện để cán bộ phát huy năng lực, sở trường, ít có hiện tượng bố trí người không đúng việc đối với CBQLGD giữ chức vụ lãnh đạo.

Việc tuyển chọn CBQLGD được các cấp có thẩm quyền thực hiện đúng quy trình, đúng thủ tục, có trách nhiệm phối hợp giữa quản lý ngành và quản lý theo lãnh thổ và sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng.

Đội ngũ này được tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng chủ yếu từ hoạt động thực tiễn của họ cùng với việc theo dõi, đánh giá của cơ quan quản lý nhân sự và việc tổ chức bồi dưỡng ngắn hạn về quản lý giáo dục, chuyên môn nghiệp vụ, quản lý hành chính nhà nước. Tuỳ từng loại đối tượng CBQLGD, họ được cử đi đào tạo tập trung hoặc tại chức tại các lớp lý luận chính trị cao cấp, trung cấp hoặc sơ cấp, hoặc được cử đi đào tạo qua các chương trình quản lý giáo dục và quản lý nhà nước có bằng cử nhân, thạc sỹ quản lý giáo dục và quản lý nhà nước. Một bộ phận CBQLGD cũng đã được  cử đi dự các lớp ngắn hạn huấn luyện về kiến thức tin học, hoặc ngoại ngữ để đạt trình độ các chứng chỉ A, B, C.

Trong những năm gần đây, thông qua các chương trình dự án hợp tác quốc tế, bằng sự năng động để tạo các nguồn kinh phí và sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, nhiều CBQLGD đã được đi tham quan, trao đổi, học tập kinh nghiệm nghiên cứu quản lý giáo dục ở các nước trong khu vực và các nước phát triển.

Việc khen thưởng CBQLGD đã có nhiều tiến bộ, được tiến hành thường xuyên, chú ý quan tâm phát hiện và khen thưởng các CBQLGD công tác ở các địa bàn, lĩnh vực, cơ sở có nhiều khó khăn.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD hiện nay chưa có quy hoạch, kế hoạch dài hạn, chưa được quan tâm đúng mức, mới chú ý việc bồi dưỡng; nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý còn chậm được đổi mới, chất lượng chưa cao. Chưa có một cơ chế phối hợp, phân công chịu trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBQLGD kế cận.

Đang có tình trạng trong cùng một cơ quan, đơn vị, việc phân công về chức trách, nhiệm vụ không rõ ràng, người thì quá ít việc, người thì  quá nhiều việc. Việc phát huy và khai thác hết khả năng, kinh nghiệm của những CBQLGD lớn tuổi cũng chưa được chú trọng. Thiếu định hướng trong việc sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ thuộc các lứa tuổi khác nhau, giữa lớp cán bộ trẻ mới nhận nhiệm vụ với cán bộ trung niên đang sung sức và lớp cán bộ lớn tuổi, sắp nghỉ chế độ.

Do tình hình phân cấp quản lý giáo dục hiện nay còn chưa thống nhất, thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan quản lý giáo dục trong công tác quản lý, bổ nhiệm CBQLGD còn bị hạn chế. ở một số địa phương vẫn còn tình trạng xem nhẹ ý kiến của cơ quan quản lý giáo dục trong bổ nhiệm, điều động, luân chuyển CBQLGD, ảnh hưởng đến chất lượng của công tác xây dựng CBQLGD.

Khi các giáo viên dạy giỏi, có uy tín được điều về các Phòng Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo làm việc thì thu nhập thực tế bị giảm đáng kể, do không còn được hưởng phụ cấp ưu đãi. Ví dụ: Một giáo viên giỏi trường trung học phổ thông chuyên có 15 năm công tác, đang hưởng lương bậc 5, hệ số 3,66, nếu dạy ở trường được hưởng lương: 3,66 x 450.000đ =1.647.000đ; tiền phụ cấp ưu đãi: 3,66 x 450.000đ x70% = 1.152.900đ; Tổng thu nhập 1.647.000đ + 1.152.900đ = 2.799.900đ. Khi được điều về làm chuyên viên Sở Giáo dục và Đào tạo chỉ còn được hưởng lương 1.647.000đ, do không còn được hưởng phụ cấp ưu đãi nên thu nhập giảm 1.152.900đ/tháng, tức giảm hơn 40%. Đối với cán bộ quản lý các trường, ngoài việc không còn được hưởng phụ cấp ưu đãi, còn không được hưởng cả phụ cấp chức vụ lãnh đạo nên thu nhập một tháng giảm khoảng 50%. Do đó có tình hình các cán bộ giỏi, trẻ không muốn về công tác ở các cơ quan quản lý giáo dục.

Điều kiện làm việc của các cán bộ quản lý giáo dục nói chung còn nhiều hạn chế. Rất nhiều Ban giám hiệu các trường phổ thông, nhiều Ban chủ nhiệm các khoa ở trường đại học, cao đẳng chưa đủ mỗi người có một bộ bàn ghế để ngồi làm việc.  

V. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG MẶT ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ, YẾU KÉM CỦA ĐỘI NGŨ  NG&CBQLGD

1. Nguyên nhân của những mặt ưu điểm

1.1.Sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với đội ngũ NG&CBQLGD thể hiện trong việc những năm gần đây đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Nghị định, Quyết định quan trọng liên quan đến chủ trương xây dựng đội ngũ NG&CBQLGD và các chính sách đối với NG&CBQLGD như:

- Kết luận của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 Khoá IX đã chỉ ra một trong 5 giải pháp để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 Khoá VIII là: Xây dựng đội ngũ NG&CBQLGD một cách toàn diện.

- Chỉ thị 40/CT-TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư, QĐ 09/2005/QĐ-TTg ngày 11/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ về :"Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục".

- Chỉ thị số 18/2001/CT-TTg ngày 27/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp cấp bách xây dựng đội ngũ NG&CBQLGD  của hệ thống giáo dục quốc dân.

- Nghị định số 35/2001/NĐ-CP về chế độ chính sách đối với NG&CBQLGD công tác ở trường chuyên biệt, vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, nay được thay thế bằng Nghị định 61/2006/NĐ-CP.

- Đã đưa việc bồi dưỡng thay sách cho giáo viên thành chương trình mục tiêu quốc gia.

- Ban hành Nghị quyết số 09/2003/NQ-CP góp phần quan trọng trong việc sắp xếp đội ngũ, giải quyết giáo viên không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

1.2. Đội ngũ NG&CBQLGD được đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ, đại đa số nhiệt tình, có trách nhiệm, tâm huyết, tận tuỵ với nghề nghiệp, đóng góp sức lực vào sự nghiệp phát triển giáo dục.

1.3. Công tác quản lý chỉ đạo của ngành đã bước đầu chú ý đến việc quản lý đội ngũ. Những năm qua Bộ GD&ĐT đã phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan tập trung xây dựng và ban hành được  hệ thống văn bản chỉ đạo như: Quy chế bồi dưỡng nhà giáo chưa đạt chuẩn; Định mức biên chế giáo viên mầm non, phổ thông; Quy chế đánh giá, phân loại giáo viên mầm non, phổ thông; Các văn bản hướng dẫn tuyển dụng mới giáo viên mầm non, phổ thông làm khung pháp lý cho các địa phương đánh giá, sắp xếp, tuyển dụng mới giáo viên.

1.4. Các chế độ chính sách của Nhà nước đối với NG&CBQLGD trong những năm gần đây đã góp phần tích cực trong việc nâng cao chất lượng của đội ngũ.

- Về chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng: Nhà nước đã có hệ thống chính sách thu hút học sinh khá giỏi vào ngành sư phạm như không thu học phí; sinh viên sư phạm tốt nghiệp có nhiều cơ hội trở thành nhà giáo ở các trường công lập, ngoài công lập; được hưởng phụ cấp ưu đãi; nhà giáo công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng thêm phụ cấp thu hút và các chế độ chính sách khác.

- Nhà nước đã quan tâm đầu tư cho các trường sư phạm về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đảm bảo địa phương nào cũng có trường (khoa) đào tạo sư phạm.

- Chính sách bồi dưỡng nhà giáo đã được cụ thể hoá trong chương trình mục tiêu quốc gia.

- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai một số dự án ODA có mục tiêu là nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên các bậc học và trình độ CBQLGD, nâng cao chất lượng và năng lực đào tạo của một số trường sư pham.

- Chính sách sử dụng, đãi ngộ, chính sách lương và phụ cấp lương đối với NG&CBQLGD cũng đã được quan tâm giải quyết nhằm khuyến khích giáo viên học tập, nâng cao trình độ.

2. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém

2.1. Trong một thời gian tương đối dài, tư duy về quản lý giáo dục của ngành giáo dục - đào tạo, các Bộ, ngành, địa phương trong điều kiện đã được Nhà nước phân cấp  nhiệm vụ quản lý giáo dục chậm đổi mới; chưa chú trọng việc xây dựng đội ngũ NG&CBQLGD ngang tầm với vị trí, nhiệm vụ. Sự đổi mới trong chỉ đạo của ngành và hiệu quả trong quản lý còn hạn chế, chưa theo kịp sự đổi mới, trong đó có nguyên nhân bệnh thành tích trong đội ngũ cán bộ quản lý. Trong một thời gian dài, các Bộ, ngành Trung ương chưa có một tổ chức chuyên trách để tham mưu và theo dõi, tổ chức triển khai việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD. Do không có tổ chức quản lý chỉ đạo riêng nên sự chỉ đạo thiếu tính chuyên nghiệp và không có đủ thời gian và cán bộ để chăm lo cho đội ngũ NG&CBQLGD ở các cơ sở giáo dục và đào tạo. Công tác quy hoạch và kế hoạch đào tạo đội ngũ NG&CBQLGD của ngành, các Bộ, ngành, địa phương, các trường còn yếu và chưa được chú trọng đúng mức, chưa bám sát nhu cầu sử dụng của địa phương và đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.

2.2. Công tác quản lý đội ngũ NG&CBQLGD còn yếu kém. Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý chưa kịp thời và có nơi, có lúc chưa nghiêm. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho NG&CBQLGD chưa được chú ý đúng mức, thiếu thường xuyên, còn hình thức, hiệu quả thấp. Đội ngũ thanh tra chuyên ngành chưa đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng, nhất là nghiệp vụ thanh tra, quyền hạn, nhiệm vụ của thanh tra viên cũng không được quy định rõ ràng. Hệ thống chế độ, chính sách cho đội ngũ NG&CBQLGD còn bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung, chưa tạo được động lực để đội ngũ này chuyên tâm với nghề nghiệp.

2.3. Nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng NG&CBQLGD ở các trường nặng về lý thuyết, chưa sát thực tế, chưa trang bị được cho người học những kỹ năng cần thiết. Chất lượng và hiệu quả của công tác bồi dưỡng thường xuyên và bồi dưỡng theo chu kỳ cho NG&CBQLGD còn thấp. Phương pháp bồi dưỡng cho NG&CBQLGD còn nhiều yếu kém. Việc bồi dưỡng cán bộ giảng dạy chủ yếu là tự học, thông qua công tác nghiên cứu khoa học nhưng phương tiện nghiên cứu và ngân sách đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học ở các trường đại học còn hạn chế. Phần lớn các nhà giáo ít có điều kiện để cập nhật kiến thức và phương pháp giáo dục hiện đại.

2.4. Quy mô đào tạo đại học được mở rộng quá nhanh để đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội trong khi sự phát triển đội ngũ nhà giáo không tương ứng cả về số lượng và chất lượng.

2.5. Đời sống của đội ngũ NG&CBQLGD còn nhiều khó khăn. Lương và thu nhập của NG&CBQLGD chưa thực sự làm họ chuyên tâm với công việc, còn phải làm thêm để tăng thu nhập, ít dành thời gian tự học, nghiên cứu khoa học, chưa chuyên tâm tập trung đúng mức cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy.

 

Phần thứ hai

MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP

 

Việc nâng cao chất lượng và phát triển đội ngũ NG&CBQLGD một cách toàn diện ngang tầm với đòi hỏi của phát triển đất nước thời kỳ sau năm 2010 là nhiệm vụ có tính chất quyết định để phát triển hệ thống giáo dục đào tạo.

Ngày 15/6/2004, Ban Bí thư ban Trung ương Đảng đã hành Chỉ thị số 40-CT/TW về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ NG&CBQLGD. Ngày 11/01/2005, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 09/2005/QĐ-TTg phê duyệt Đề án "Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ NG&CBQLGD giai đoạn 2005-2010", với mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp sau:

I. Mục tiêu

Xây dựng đội ngũ NG&CBQLGD theo hướng chuẩn hóa, đủ về số lượng, nâng cao chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

II. Nhiệm vụ

1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ NG&CBQLGD.

2. Xây dựng trật tự kỷ cương, nền nếp trong dạy và học, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, nâng cao tinh thần trách nhiệm tạo môi trường giáo dục lành mạnh.

3. Tiến hành rà soát, sắp xếp lại đội ngũ NG&CBQLGD để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng bảo đảm đủ số lượng và cân đối về cơ cấu, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức cho đội ngũ NG&CBQLGD.

4. Củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống các trường sư phạm, học viện quản lý giáo dục, các trường cán bộ quản lý giáo dục.

5. Đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng, đổi mới phương pháp giáo dục, phương pháp đánh giá theo hướng hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

6. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quản lý NG&CBQLGD.

7. Xây dựng và hoàn thiện chính sách, chế độ đối với đội ngũ NG&CBQLGD.

III. Giải pháp

Để thực hiện tốt 7 nhiệm vụ trên, Chính phủ tập trung chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ và phân công của Chính phủ, triển khai thực hiện các giải pháp sau:

1. Tổ chức triển khai thực hiện tốt Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg ngày 08/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục, coi đây là khâu đột phá trong năm 2006-2007 để lập lại trật tự, kỷ cương nền nếp trong dạy và học và quản lý giáo dục, làm tiền đề triển khai những giải pháp khác nhằm khắc phục các yếu kém trong ngành, tạo môi trường giáo dục lành mạnh. Quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý giáo dục và nhà trường trong việc ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Tôn vinh những tấm gương mẫu mực, nhà quản lý giáo dục giỏi, tuyên truyền rộng rãi và tổ chức học tập những điển hình tiên tiến trong giáo dục.

2. Củng cố, nâng cao năng lực hệ thống trường sư phạm và đổi mới công tác bồi dưỡng nhà giáo.

- Xây dựng mạng lưới các trường, khoa sư phạm một cách hợp lý. Tập trung nguồn lực để hoàn thành xây dựng cơ sở vật chất cho hai trường đại học sư phạm trọng điểm. Tiếp tục đầu tư, tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị, xây dựng ký túc xá cho các trường sư phạm. Hiện đại hoá trang thiết bị giảng dạy, học tập, phòng thí nghiệm, thực hành. Ưu tiên tập trung đầu tư cho các trường sư phạm đào tạo các loại hình giáo viên còn thiếu. Ưu tiên dành vốn vay và tài trợ, hợp tác quốc tế cho xây dựng các trường sư phạm, nhất là các trường sư phạm trọng điểm. Lập đề án xây dựng mới hai trường cao đẳng sư phạm kỹ thuật tại khu vực miền núi phía Bắc và duyên hải miền Trung, Tây Nguyên. Mở rộng khoa sư phạm đào tạo giáo viên nhạc, hoạ, thể dục ở các trường sư phạm và trong các trường đại học khác.

- Phân công các trường sư phạm chịu trách nhiệm đào tạo chuyên sâu về một số lĩnh vực phù hợp với khả năng về đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất của mỗi trường. Củng cố, phát triển các trường, khoa sư phạm nghề nghiệp, mở thêm các khoa đào tạo giáo viên trung cấp chuyên nghiệp - dạy nghề các ngành kinh tế, dịch vụ, y tế, thuỷ sản, kiến trúc, xây dựng, giao thông vận tải, nông, lâm nghiệp, để bổ sung và đồng bộ hoá đội ngũ giáo viên.

- Các trường sư phạm tiến hành điều chỉnh nội dung, chương trình, giáo trình đào tạo để đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung, chương trình của giáo dục phổ thông, mầm non, nghề nghiệp. Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo, bồi dưỡng năng lực tự học của sinh viên gắn kết học tập với thực hành, với thực tiễn cuộc sống. Thực hiện đổi mới phương pháp đánh giá kết quả học tập theo hướng tập trung đánh giá năng lực vận dụng kiến thức, đặc biệt chú trọng đào tạo nghiệp vụ sư phạm, giáo dục phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp.

- Củng cố và xây dựng các trường thực hành sư phạm, xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các trường sư phạm với các trường phổ thông, mầm non, trường dạy nghề trong quá trình đào tạo nhà giáo.

-  Xây dựng đội ngũ giảng viên sư phạm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, có phẩm chất và năng lực vững vàng đáp ứng yêu cầu đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học ở trường sư phạm. Chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết để đưa giảng viên trẻ đi đào tạo tại nước ngoài bằng nguồn ngân sách Nhà nước và các dự án vay vốn nước ngoài. Tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo giáo viên và nghiên cứu khoa học giáo dục với các trường đại học, cao đẳng danh tiếng trong khu vực và trên thế giới. Tiếp tục mở các lớp tạo nguồn tuyển sinh cao học cho các trường sư phạm các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Các trường này có trách nhiệm đảm bảo chỉ tiêu, cử các cán bộ có đủ năng lực đi đào tạo cao học và nghiên cứu sinh. Phấn đấu đến 2007 đạt tỷ lệ 30% giảng viên ở các đại học sư phạm có trình độ thạc sĩ trở lênvà đến 2010 đạt tỷ lệ là 45%.

- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch tổng thể về công tác bồi dưỡng nhà giáo từ 2007 tới 2010. Tập trung đổi mới công tác bồi dưỡng về nội dung, phương pháp, cách đánh giá và sử dụng kết quả bồi dưỡng trong công tác phát triển đội ngũ nhà giáo. Khẩn trương xây dựng và triển khai chương trình đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nhà giáo để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước sau năm 2010. Triển khai có hiệu quả kế hoạch bồi dưỡng giáo viên phổ thông đáp ứng yêu cầu của chương trình và sách giáo khoa mới.

- Thực hiện chế độ hàng năm cử 5-7% NG&CBQLGD đi học tập, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ tập trung; trong thời gian đi học, NG&CBQLGD được hưởng nguyên lương và phụ cấp nếu có, được cấp công tác phí và tài liệu học tập; được bổ sung quỹ biên chế, quỹ lương để có giáo viên dạy thay.

- Xây dựng và ban hành chuẩn nghề nghiệp giáo viên các cấp học. Đẩy mạnh bồi dưỡng chuẩn hoá số giáo viên dưới chuẩn, đồng thời chấm dứt đào tạo giáo viên dưới chuẩn. Mục tiêu đến năm 2007 bình quân có 80% giáo viên mầm non, 98% giáo viên tiểu học, 97% giáo viên trung cấp chuyên nghiệp và 98% giáo viên trung học phổ thông đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn đào tạo theo quy định.

- Bồi dưỡng kỹ năng sư phạm, phương pháp nghiên cứu khoa học và ứng dụng kỹ thuật, nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn nghề nghiệp, trình độ tay nghề, năng lực sử dụng công nghệ thông tin, ngoại ngữ cho đội ngũ giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề. Thực hiện đến năm 2007, 100% giáo viên trường dạy nghề được bồi dưỡng sư phạm bậc 1, 100% giáo viên trung cấp chuyên nghiệp có trình độ sư phạm bậc I, 50% giáo viên dạy nghề được bồi dưỡng công nghệ mới.

-  Ban hành cơ chế để giảng viên cao đẳng, đại học đi học tập, nghiên cứu, dự hội thảo, hội nghị khoa học, tham quan, trao đổi kinh nghiệm ở nước ngoài, học tập nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ có hiệu quả, thiết thực.

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học trong các trường cao đẳng, đại học, chú trọng nghiên cứu khoa học vào việc đổi mới nội dung phương pháp dạy và học, phương pháp đánh giá.

-  Đảm bảo đủ số lượng giảng viên đại học, cao đẳng. Từng bước giải quyết tình trạng hẫng hụt trong đội ngũ giảng viên, tăng tỷ lệ giảng viên có trình độ thạc sĩ lên 30% và trình độ tiến sĩ lên 20% vào năm 2008. Từng bước giảm tỷ lệ sinh viên/giảng viên từ 30 sinh viên/giảng viên hiện nay xuống còn 20 sinh viên/giảng viên.

- Từ năm 2006, hàng năm tổ chức Hội nghị toàn quốc các trường sư phạm để đánh gia sự phát triển ngành sư phạm, giải quyết các vấn đề phát sinh, phổ biến các điển hình về đào tạo và quản lý.

3. Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng CBQLGD.

- Củng cố các cơ sở đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục hiện có. Tập trung đầu tư xây dựng Học viện Quản lý giáo dục và Trường Cán bộ quản lý giáo dục II đủ khả năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục có trình độ cao và làm tốt công tác nghiên cứu khoa học quản lý giáo dục. Từng bước hiện đại hoá các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục trên cơ sở các quy định về nội dung, chương trình, đội ngũ cán bộ, giảng viên và cán bộ quản lý,  về cơ sở vật chất và trang thiết bị, về chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Chương trình bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục phải đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế.

- Xây dựng hệ thống chương trình khung, hoàn thành và thống nhất các chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục trong cả nước, trong đó có chương trình đào tạo hiệu trưởng, hiệu trưởng dự bị ở các trường phổ thông. Thành lập các hội đồng bộ môn về quản lý giáo dục để thẩm định các chương trình, giáo trình, tài liệu.

- Thống nhất hệ thống văn bằng chứng chỉ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục; quy định giá trị pháp lý của các văn bằng chứng chỉ đó trong quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.

- Thiết kế các chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ đối với từng chức danh cán bộ quản lý giáo dục. Xây dựng hệ thống tiêu chí để kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục làm cơ sở để đánh giá về hiệu quả của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục.

4. Xây dựng kế hoạch sử dụng hợp lý đội ngũ NG&CBQLGD hiện có và sinh viên mới ra trường.

- Trên cơ sở kết quả điều tra tổng thể đội ngũ NG&CBQLGD, tiếp tục chỉ đạo hướng dẫn các địa phương trong việc đánh giá, phân loại và có kế hoạch sử dụng hợp lý  đội ngũ NG&CBQLGD. Thực hiện việc bố trí và sử dụng đội ngũ NG&CBQLGD trên cơ sở các tiêu chuẩn, định mức cụ thể cho từng cấp học, đảm bảo đủ số lượng, đồng bộ về cơ cấu, triển khai công tác luân chuyển cán bộ quản lý giữa các cơ sở giáo dục. Thực hiện giải pháp sắp xếp, giải quyết NG&CBQLGD yếu kém về chuyên môn nghiệp vụ, về tư tưởng chính trị đạo đức, hạn chế về sức khoẻ, tuổi cao, không còn đủ điều kiện đứng lớp và công tác trong ngành giáo dục theo các chế độ, chính sách hợp lý.

- Thực hiện đủ chỉ tiêu biên chế cho các cơ sở giáo dục đồng thời ban hành quy định về nghĩa vụ của người tốt nghiệp đại học, cao đẳng được hưởng các chi phí đào tạo chuyên môn do Nhà nước cấp trong khóa học phải chấp hành sự điều động làm việc có thời hạn của Nhà nước; thu hồi học phí của những sinh viên được hưởng các chi phí đào tạo không chấp hành sự điều động.

- Hoàn thiện cơ chế tuyển dụng, đào tạo, đào tạo theo địa chỉ, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trẻ từ sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, các lớp cử nhân tài năng, kỹ sư chất lượng cao. 

- Trên cơ sở dự báo nhu cầu về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển đội ngũ giảng viên chuyên ngành về quản lý giáo dục đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, có đủ năng lực, trình độ chuyên môn và nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu chuyên môn quản lý giáo dục.

5. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác quản lý NG&CBQLGD

- Hoàn thiện các quy định về công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các chính sách, pháp luật về giáo dục. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, nhất là công tác thanh tra chuyên môn và quản lý chất lượng giáo dục. Quản lý chặt các loại hình đào tạo, nhất là đào tạo tại chức, từ xa và quản lý tốt việc cấp phát văn bằng, chứng chỉ.

- Bổ sung, hoàn chỉnh tiêu chí đánh giá, công nhận nhà giáo nhân dân và nhà giáo ưu tú. Tổ chức hằng năm việc tuyên dương, khen thưởng các NG&CBQLGD có thành tích xuất sắc.

- Thực hiện chế độ luân chuyển các NG&CBQLGD giỏi tăng cường cho các cơ quan quản lý giáo dục, các cơ sở giáo dục.

- Trên cơ sở quy định về quản lý hồ sơ cán bộ, công chức của Nhà nước, hoàn thiện nội dung hồ sơ quản lý NG&CBQLGD, đồng thời nâng cấp, hiện đại hóa công cụ quản lý thông qua việc ứng dụng CNTT trong quản lý nhân sự.

 - Tăng cường công tác dự báo, đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, kiện toàn đội ngũ NG&CBQLGD. Có chính sách điều tiết số lượng và cơ cấu đội ngũ này cho phù hợp với yêu cầu phát triển giáo dục.

- Kiện toàn công tác quản lý từ Bộ đến các cấp quản lý giáo dục tại địa phương theo hướng phân công, phân cấp về trách nhiệm, quyền hạn, không trùng lặp, chồng chéo, bảo đảm sự phân công hợp lý giữa các cấp, các ngành, giữa các cơ quan quản lý đội ngũ NG&CBQLGD.

- Thành lập cơ quan chuyên trách chăm lo phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo (Vụ hoặc Cục Giáo viên và Cán bộ quản lý giáo dục). 

- Quý IV/2007, tổ chức tổng kết đánh giá 3 năm thực hiện Chỉ thị 40-CT/TW của Ban Bí thư và 2 năm thực hiện Quyết định 09/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ NG&CBQLGD.

6. Xây dựng và hoàn thiện một số chính sách, chế độ đối với đội ngũ NG&CBQLGD

- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng, quản lý đội ngũ NG&CBQLGD; khẩn trương rà soát để điều chỉnh và xây dựng mới hệ thống văn bản quy định về chế độ công tác, định mức lao động, tuyển dụng, bổ nhiệm NG&CBQLGD.

- Tiếp tục thực hiện chính sách quy định tại Nghị quyết số 09/2003/NQ-CP ngày 28/7/2003 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế để sắp xếp, bố trí lại đội ngũ NG&CBQLGD không còn đủ điều kiện đứng lớp, cho nghỉ chế độ trước tuổi quy định.

- Tập trung mọi nguồn lực để đầu tư xây dựng nhà ở nội trú công vụ cho NG&CBQLGD công tác ở miền núi, vùng sâu, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.

- Xây dựng cơ cấu ngạch viên chức của các cấp học làm cơ sở cho công tác tuyển dụng và sử dụng viên chức của ngành.

- Xây dựng chính sách thu hút đối với cán bộ khoa học có trình độ cao ở trong và ngoài nước tham gia giảng dạy trong các trường đại học Việt Nam.

- Tiếp tục hoàn thiện, bổ sung chế độ chính sách đối với NG&CBQLGD. Đặc biệt chú ý tới NG&CBQLGD công tác ở vùng kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, NG&CBQLGD là người dân tộc thiểu số, NG&CBQLGD nữ có trình độ cao.Trong năm 2007, xây dựng xong lộ trình nâng cao thu nhập cho giáo viên các bậc học tới năm 2010.

- Tiếp tục hoàn thiện và bổ sung cơ chế quản lý, sử dụng đội ngũ NG&CBQLGD theo tinh thần giao quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm cho cơ quan quản lý giáo dục các cấp và các cơ sở giáo dục.

- Giao chỉ tiêu và cấp ngân sách để thực hiện kế hoạch bồi dưỡng nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục cho các trường sư phạm, học viện quản lý giáo dục, trường cán bộ quản lý giáo dục.

-  Chỉ đạo xây dựng Dự án Luật Giáo viên trình Quốc hội.

7. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ NG&CBQLGD

Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các Bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố tiến hành sơ kết việc thực hiện Chỉ thị 34 CT/TW của Bộ Chính trị khoá VII và Chỉ thị 40-CT/TW của Ban Bí thư, trên cơ sở đó tiếp tục tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho NG&CBQLGD, sinh viên, học sinh; củng cố và tăng cư­ờng vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và hoạt động của các đoàn thể quần chúng trong nhà trư­ờng; phát triển đội ngũ đảng viên mới trong đội ngũ NG&CBQLGD, nhất là số cán bộ trẻ và sinh viên. Đến năm 2010, không còn cơ sở trư­ờng học nào không có tổ chức Đảng hoặc không có đảng viên. Nâng tỷ lệ đảng viên trong đội ngũ NG&CBQLGD.

Phần thứ ba

ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ 

1.  Đề nghị Quốc hội xem xét các giải pháp nêu trên, chỉ đạo và đưa vào kế hoạch xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội Khóa XI " Luật Giáo viên", phê duyệt và ban hành Luật Dạy nghề.

2. Đề nghị Quốc hội xem xét, tạo điều kiện để Chính phủ thực hiện một số chủ trương sau đây:

 - Có chính sách tiền lương thoả đáng đối với NG&CBQLGD; trước mắt khôi phục lại chế độ phụ cấp thâm niên cho NG&CBQLGD để đội ngũ này yên tâm công tác.

- Tăng ngân sách hằng năm và tăng dần tỷ lệ đầu tư cho dạy nghề trong ngân sách chi cho giáo dục, để đến năm 2010 đạt từ 10%-12% nhằm đáp ứng yêu cầu mới.

 - Về tiêu chuẩn phong tặng nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú:

Cho phép thực hiện chính sách ưu tiên đối với NG&CBQLGD đang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa được quy đổi, nhân hệ số năm trực tiếp giảng dạy và số thâm niên công tác trong ngành để xét phong tặng danh hiệu nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú.

Đối với nhà giáo đã nghỉ hưu nhưng hiện đang tham gia giảng dạy tại các trường ngoài công lập, những nhà giáo lão thành trước đây chưa có danh hiệu nhưng vẫn được xã hội tôn vinh, thừa nhận công lao, thành tích đóng góp cho sự nghiệp giáo dục, được cơ sở thừa nhận vẫn được đề nghị Nhà nước xét phong tặng danh hiệu nhà giáo nhân  dân, nhà giáo ưu tú.

Trên đây là báo cáo về đội ngũ NG&CBQLGD trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề của Chính phủ, kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.

Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân

                                         

 

,
Ý kiến của bạn
Ý kiến bạn đọc
,
,
,
,