221
482
Diễn đàn
diendan
/giaoduc/diendan/
861450
Báo cáo giám sát đội ngũ nhà giáo, nhàquản lý giáo dục
1
Article
447
Giáo dục
giaoduc
/giaoduc/
Báo cáo giám sát đội ngũ nhà giáo, nhàquản lý giáo dục
,

(VietNamNet) - Báo cáo kết quả giám sát về đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề do Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên Nhi đồng của Quốc hội Trần Thị Tâm Đan trình bày.

Báo cáo của Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân.

Giáo viên dạy nhạc hiện đang rất thiếu

Theo Chương trình giám sát năm 2006 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội được giao nhiệm vụ giám sát về đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề.

Thường trực Uỷ ban đã nghe báo cáo trực tiếp của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và một số cơ quan liên quan. Uỷ ban đã tổ chức các đoàn đi giám sát ở một số địa phương, một số trường đại học, cao đẳng và dạy nghề. Ngày 28/10/2006, Uỷ ban đã họp phiên toàn thể để thảo luận, thông qua báo cáo kết quả giám sát về đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề.

Sau đây, thay mặt Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng, chúng tôi xin trình bày báo cáo nói trên

I. TÌNH HÌNH ĐỘI NGŨ NHÀ GIÁO VÀ CÁN BỘ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt trong việc phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục qua các thời kỳ lịch sử ở nước ta. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn coi trọng việc xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và đã có chính sách chăm lo cho thầy, cô giáo. Bước vào thời kỳ đổi mới, đội ngũ nhà giáo nước ta, với gần một triệu thầy, cô giáo và hơn 90.000 cán bộ quản lý giáo dục, từ thành phố đến nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vẫn phát huy được truyền thống tốt đẹp của nhà giáo, lao động sáng tạo, khắc phục khó khăn, tâm  huyết với sự nghiệp “trồng người”, đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp phát triển giáo dục nước ta với quy mô trên 22 triệu người đi học.

Tuy nhiên, trước yêu cầu tăng quy mô, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực theo yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đạt chuẩn về đạo đức, trình độ, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu đang là vấn đề bức bách, cần sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, xã hội và của ngành Giáo dục.

1. Tình hình đội ngũ nhà giáo

Qua nhiều năm phát triển, nước ta đã xây dựng được một đội ngũ nhà giáo và đội ngũ này đang tích cực lao động thực hiện nhiệm vụ của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.

Tỷ lệ giáo viên mầm non, phổ thông đạt trình độ chuẩn theo quy định khá cao, ở giáo dục mầm non đạt 77,5%, tiểu học 96,5%, THCS 95%, THPT 97%. Cơ cấu đội ngũ giáo viên phổ thông không đồng bộ, vừa thừa, vừa thiếu. Hầu hết các địa phương đều thiếu giáo viên âm nhạc, mỹ thuật, công nghệ, thể dục thể thao và tình trạng này đã kéo dài nhiều năm nên ảnh hưởng đến mục tiêu giáo dục toàn diện về trí, đức, thể, mỹ cho học sinh.

Giáo viên ở các trường trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề, nhìn chung có trình độ đại học và một số là công nhân lành nghề dạy thực hành. Đội ngũ giảng viên đại học đang thiếu trầm trọng, thể hiện ở tỷ lệ sinh viên/giảng viên trung bình là 28 sinh viên/giảng viên, ở một số lĩnh vực như kinh tế, dịch vụ thì tỷ lệ là gần 40 sinh viên/giảng viên. Trong khi đó ở nhiều nước, tỷ lệ này trung bình là 15-20 sinh viên/giảng viên. Đặc biệt là sự hụt hẫng đội ngũ giảng viên đầu ngành. Những Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ được đào tạo một cách hệ thống ở nước ngoài, có kinh nghiệm sư phạm, đang là những người chủ trì các chương trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp Nhà nước thì nay hầu hết đã ở độ tuổi 70 và đã nghỉ hưu, trong khi đó đội ngũ kế cận thì chưa được chuẩn bị ngang tầm để thay thế. Những năm gần đây, tốc độ phát triển quy mô giáo dục đại học tăng nhanh, từ năm học 2001-2002 đến năm học 2005-2006, số sinh viên được đào tạo đại học chính quy trung bình mỗi năm tăng 7,36% và đại học thường xuyên tăng 7,49%; số sinh viên được đào tạo cao đẳng chính quy tăng 9,47% và cao đẳng thường xuyên tăng 25,12%. Các trường đại học, cùng với việc mở rộng quy mô đào tạo hệ chính quy, còn mở các lớp đại học, cao đẳng tại chức; đồng thời lại tổ chức liên kết với các trung tâm giáo dục thường xuyên của nhiều tỉnh, với các cơ quan, ban, ngành, tổ chức để mở các lớp tại chức ngoài nhà trường. Do đó, dẫn đến tình trạng số giờ giảng dạy của một giảng viên đại học ở nước ta khá cao, có trường hợp lên tới 800-1.000 giờ/năm (ở nước ngoài khoảng 300-400 giờ/năm). Như vậy, nhiều giảng viên không còn thời gian tham gia nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn của mình.

Trường đại học có hai nhiệm vụ cơ bản là giảng dạynghiên cứu khoa học (NCKH). Tỷ lệ thời gian giữa hai nhiệm vụ này của giảng viên ở nhiều trường đại học nước ngoài thường là 50/50, trong khi ở nước ta, tại các trường đại học có truyền thống NCKH, tỷ lệ này ở một số giảng viên chủ chốt là 70/30 (giảng dạy là 70%, NCKH là 30%). Nhìn chung, công tác NCKH của đại đa số giảng viên ở đại học rất hạn chế. Đây là mặt yếu khá cơ bản, rất đáng quan tâm đối với đội ngũ giảng viên đại học cũng như các trường đại học nước ta. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến nâng cao chất lượng giáo dục.

Về cơ bản, đại bộ phận nhà giáo nước ta có phẩm chất đạo đức tốt, tận tuỵ với nghề nghiệp, có ý thức vươn lên, có tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo. Những thành tựu của giáo dục đạt được trong những năm qua đã góp phần quan trọng trong sự nghiệp Đổi mới đất nước, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.

Trong những năm gần đây, đội ngũ nhà giáo nước ta đã được tăng về số lượng thuộc một số chuyên ngành đã góp phần giảm bớt sự bất hợp lý về cơ cấu. Việc bồi dưỡng năng lực sư phạm, ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học, các phương tiện, thiết bị hiện đại đã được chú trọng đầu tư ở một số trường đại học trọng điểm. Đội ngũ nhà giáo đã vươn lên, tiếp cận và ứng dụng công nghệ thông tin, học thêm ngoại ngữ, đồng thời phấn đấu đạt trình độ chuẩn theo quy định.

Đội ngũ giáo viên mầm non và phổ thông đạt trình độ chuẩn khá cao và, về cơ bản, đã đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ. Tuy nhiên, mặt yếu của đội ngũ này là rất hạn chế trong việc cập nhật kiến thức và phương pháp giáo dục nên không phát huy được tính chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh, chưa tạo được sự hứng thú cho học sinh đến trường, nhất là ở tiểu học và THCS.

Đội ngũ giảng viên đại học vừa thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực, trình độ, đặc biệt là đội ngũ giảng viên đầu đàn đang bị hẫng hụt; nhiều giảng viên không triển khai được nhiệm vụ NCKH.

Nhìn chung, đội ngũ nhà giáo nước ta ở các cấp học, do nhiều nguyên nhân, đều có hạn chế trong việc đổi mới phương pháp giáo dục. Cách tổ chức quá trình học tập cho người học ở nhà trường vẫn còn tình trạng nhà giáo chưa hướng dẫn được cho học sinh biết tự học, biết cách chủ động, sáng tạo để tiếp nhận kiến thức một cách tự giác. Nhà trường chưa chăm lo được đến sự phát triển của từng học sinh. Sự quan tâm của nhà giáo đến việc chăm lo cho học sinh, sinh viên phát triển phẩm chất đạo đức, biết tôn trọng giá trị thẩm mỹ, có thái độ thân thiện trong quan hệ xã hội, xây dựng niềm tin, hoài bão, ý chí vươn lên, hướng dẫn kỹ năng sống, ý thức trách nhiệm công dân… trong những năm qua còn rất hạn chế.

Thu nhập của nhà giáo không đồng đều, có sự phân hoá, một số ít có thu nhập khá, một bộ phận còn khó khăn. ở đô thị, nhìn chung việc giải quyết nhà ở cho giáo viên còn hạn chế. Giáo viên ở miền xuôi lên miền núi dạy học, đời sống văn hoá nghèo nàn, nhất là ở vùng cao, nhiều nơi không có nhà ở nội trú.

Một bộ phận nhà giáo không vượt qua được những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường đối với giáo dục, có biểu hiện suy thoái về đạo đức nghề nghiệp, không đấu tranh với những gian dối trong giáo dục, thỏa hiệp, thậm chí còn bị lôi cuốn tham gia vào các tiêu cực trong thi cử, đánh giá luận văn, luận án tốt nghiệp, cá biệt có những nhà giáo coi giáo dục như là phương tiện để trục lợi, làm tổn hại đến uy tín, danh dự của đội ngũ nhà giáo.

2. Tình hình đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục (CBQLGD)

Cán bộ quản lý giáo dục thường được lựa chọn từ các nhà giáo có trình độ chuyên môn phù hợp với các bậc học, có kinh nghiệm trong công tác giáo dục nên am hiểu khá sâu về giáo dục. Về cơ bản, CBQLGD nắm được đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về giáo dục, tận tuỵ, có ý thức giữ gìn phẩm chất đạo đức, tích cực và có năng lực triển khai các nhiệm vụ trong công tác quản lý, vì vậy đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển giáo dục trong những năm đổi mới. Tuy nhiên, đa số CBQLGD không được cập nhật về nghiệp vụ quản lý giáo dục hiện đại, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, thiếu các kiến thức về pháp luật, quản trị nhân sự, tài chính, hạn chế về trình độ ngoại ngữ, kỹ năng tin học nên công tác quản lý giáo dục hiện đại còn hạn chế.

Quản lý giáo dục là một lĩnh vực khoa học, đòi hỏi tính chuyên môn cao, là công cụ giữ vai trò quan trọng để giữ gìn kỷ cương trong việc tổ chức, triển khai các hoạt động giáo dục, nhất là trong dạy và học, bảo đảm điều kiện cần thiết cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Quản lý giáo dục thiếu chặt chẽ sẽ tạo điều kiện cho những tiêu cực phát triển.

Trong xã hội hiện đại, việc học ở nhà trường trở thành một nhu cầu của mọi người vì nhờ học tập mà giá trị con người cũng như giá trị sức lao động được tăng lên và con người có khả năng tồn tại, phát triển tốt hơn. Bản chất của việc học ở nhà trường, dù ở cấp, bậc học nào, thì vẫn là sự tự học của trò dưới sự tổ chức việc học và hướng dẫn cách học của thầy, cô giáo. Nhà giáo phải có năng lực tổ chức, hướng dẫn và kiểm soát được việc học. Người học phải là chủ thể trong việc học, nghĩa là phải chủ động, tự giác lao động để tích luỹ tri thức, vì việc học giữ vai trò quyết định chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, điều rất đáng lưu ý là, ở một bộ phận người học đã xuất hiện xu hướng không quan tâm đúng mức đến việc lao động để tích luỹ tri thức mà thiên về việc để có một tấm bằng nên đã có những việc làm sai trái, biểu hiện sự suy thoái đạo đức trong việc học. Những hiện tượng tiêu cực trong giáo dục phát triển rất đa dạng, đó là sự gian dối trong học tập, trong thi cử, tuyển sinh, bảo vệ luận văn, luận án, cấp phát văn bằng, chứng chỉ… Những hiện tượng này tuy chỉ xảy ra ở một bộ phận người học, CBQLGD, nhà giáo nhưng đã kéo dài nhiều năm, cho đến nay vẫn chưa được giải quyết cơ bản đã gây ra sự bức xúc trong dư luận xã hội.  Tiêu cực trong giáo dục có thể phát sinh từ người học, từ CBQLGD họăc nhà giáo, nhưng chấm dứt được những gian dối đó thì vai trò quyết định thuộc về đội ngũ CBQLGD và ý thức trách nhiệm của nhà giáo. Tuy nhiên, cũng không thể xem nhẹ trách nhiệm của người học, của cha mẹ học sinh. Những năm qua, một bộ phận đội ngũ CBQLGD có biểu hiện hữu khuynh, buông lỏng quản lý, không kiên quyết hoặc không xử lý nghiêm minh những vi phạm trong giáo dục, do phẩm chất đạo đức suy thoái còn tham gia vào những vụ việc tiêu cực trong giáo dục. Những tiêu cực trong giáo dục đã làm phương hại đến truyền thống văn hoá, đến lối sống lành mạnh và chuẩn mực đạo đức xã hội trong việc dạy và học, trong giữ gìn và phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc ta trải qua hàng nghìn năm lịch sử.

3. Nguyên nhân của những kết quả đạt được và những yếu kém trong xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD

Có thể nói rằng, những kết quả đạt được trong việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD trong những năm đổi mới được xuất phát từ ba nguyên nhân chính, như sau:

Thứ nhất là, ở nước ta, khoa học và công nghệ cùng với giáo dục được Nhà nước xác định là quốc sách hàng đầu nên, trong những năm qua, Nhà nước đã có những chủ trương rất quan trọng để nâng cao dân trí, như thực hiện việc xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và THCS; đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giáo dục ở các bậc học để nâng cao chất lượng giáo dục, đồng thời mở rộng quy mô đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu học tập của nhân dân; hằng năm đều tăng ngân sách đầu tư cho giáo dục và đến năm 2007 đã đạt 20% tổng chi ngân sách. Bên cạnh đó, Chính phủ đã phát hành trái phiếu giáo dục phục vụ cho mục tiêu xây dựng trường sở; dành vốn vay ODA cho những dự án đổi mới giáo dục ở các bậc học cùng với chủ trương xã hội hoá giáo dục, sự đóng góp của cha mẹ học sinh, của cộng đồng dân cư cho giáo dục đã giúp cho nhà trường có thêm kinh phí để tổ chức các hoạt động giáo dục. Những chủ trương đổi mới cơ chế xây dựng kế hoạch đào tạo ngoài chỉ tiêu ngân sách Nhà nước cấp, các trường thuộc giáo dục đại học được chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo đáp ứng nhu cầu của xã hội, từ đó đã tăng được quy mô và phát huy tiềm năng lao động của nhà giáo và nhà trường có thêm phần thu để tăng cường cơ sở vật chất và đời sống nhà giáo ở một số trường đại học đã được cải thiện bằng lao động của mình. Mặt khác, Chính phủ cũng đã ban hành những chính sách cụ thể, như chế độ phụ cấp đứng lớp cho nhà giáo; quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục về thực hiện nhiệm vụ, về tài chính, lao động và mức thu nhập; chính sách phát triển giáo dục mầm non; Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD.

Thứ hai là, hệ thống các trường sư phạm, trường bồi dưỡng CBQLGD đã được đầu tư xây dựng ở cấp trung ương và cấp tỉnh, bảo đảm yêu cầu đào tạo nhà giáo cho các cấp học.

Thứ ba là, đội ngũ nhà giáo và CBQLGD đã có tinh thần trách nhiệm, ý thức vươn lên khắc phục khó khăn, giữ gìn phẩm chất đạo đức, tâm huyết với nghề nghiệp để thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm cho việc học tập của người học ở khắp các vùng, miền, đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.

Những tồn tại, yếu kém của đội ngũ nhà giáo và CBQLGD có nhiều nguyên nhân, có thể đề cập đến một số nguyên nhân cụ thể, như sau:

Một là, tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa coi trọng việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo chưa được đặt ra phải đi trước một bước trong tiến trình đổi mới giáo dục. Thiếu chủ động trong quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và CBQLGD. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và CBQLGD chưa tiếp cận với cách quản lý giáo dục hiện đại và cập nhật những thành tựu mới của khoa học giáo dục. Chậm đổi mới chương trình đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm.

Hai là, sự yếu kém của đội ngũ giáo viên mầm non, phổ thông, giáo dục nghề nghiệp về phương pháp giáo dục là do giáo viên chưa tiếp cận được sự phát triển của lý luận giáo dục hiện đại có nguyên nhân từ việc chế độ bồi dưỡng định kỳ hầu như không thực hiện được, việc tự học của giáo viên để cập nhật kiến thức rất hạn chế. Ngay như việc bồi dưỡng giáo viên trước năm học để triển khai thay sách giáo khoa nhìn chung cũng chưa đạt yêu cầu cả về lý luận và kỹ năng để thay đổi phương pháp giáo dục, do việc bồi dưỡng giáo viên, chuẩn bị nâng cấp trường, lớp, thiết bị dạy học theo yêu cầu đổi mới chương trình đã không quan tâm giải quyết đồng bộ với việc chuẩn bị sách giáo khoa. Điều này giải thích được tại sao giáo viên còn lúng túng và một số không nhỏ giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới chương trình, thay sách giáo khoa.

Ba là, giữa các môn học có tình trạng vừa thừa, vừa thiếu giáo viên, đặc biệt là thừa số giáo viên không có khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và thiếu giáo viên âm nhạc, mỹ thuật, công nghệ, thể dục thể thao trong các trường phổ thông. Tình trạng này đã kéo dài trong nhiều năm, chủ yếu là do Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ chưa tham mưu để Chính phủ đưa ra được những quyết định cụ thể nhằm giải quyết số giáo viên dư và bổ sung những giáo viên âm nhạc, mỹ thuật, công nghệ, thể dục thể thao, nhân viên thí nghiệm, thư viện để nhà trường có điều kiện thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện về trí, đức, thể, mỹ.

Bốn là, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, nguồn cán bộ khoa học và công nghệ được đào tạo ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu hàng năm bổ sung cho đội ngũ giảng viên ở các trường đại học không còn, nên công tác đào tạo, bồi dưỡng giảng viên đại học chủ yếu được thực hiện ở trong nước. Việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ giảng dạy chủ yếu là tự học, thông qua công tác nghiên cứu khoa học nhưng phương tiện nghiên cứu thiếu và ngân sách đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học ở các trường đại học cũng như chi cho việc đi thực tế sản xuất, thực tập chuyên môn nghiệp vụ tại các nước có nền giáo dục phát triển rất hạn chế. Nhìn chung, đại bộ phận nhà giáo ít có điều kiện để cập nhật kiến thức và phương pháp giáo dục hiện đại. Do đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng giảng viên đại học và xây dựng đội ngũ giảng viên đầu ngành rất hạn chế về số lượng và chất lượng, dẫn đến tình trạng hẫng hụt về đội ngũ giảng viên đầu ngành ở các trường đại học, kể cả các trường sư phạm. Chủ trương của Nhà nước giao quyền tự chủ cho các trường đại học xây dựng kế hoạch tuyển sinh phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của xã hội là một chủ trương đúng. Nhưng trong tổ chức thực hiện có tình trạng mở rộng quy mô mà không quan tâm đúng mức đến việc phát triển đội ngũ giảng viên. Nhiều trường đại học không những chỉ tăng chỉ tiêu đào tạo chính quy, mở ra hệ cao đẳng, hệ tại chức tại trường mà còn ký hợp đồng với nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các cơ quan, tổ chức mở các lớp tại chức. Tình trạng này là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sinh viên/giảng viên quá cao, nhất là ở khối kinh tế, dịch vụ; giảng viên bị thu hút vào giảng dạy mà không tham gia nghiên cứu khoa học nên cũng không nâng cao được năng lực, trình độ. Do đó đội ngũ giảng viên của giáo dục đại học thiếu trầm trọng và nhìn chung hạn chế về trình độ và phương pháp.

Năm là, công tác quản lý giáo dục, trong đó có quản lý đội ngũ nhà giáo và CBQLGD còn nhiều yếu kém. Công tác thanh tra, kiểm tra chưa kịp thời và xử lý không nghiêm minh. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giữ gìn phẩm chất đạo đức trong đội ngũ nhà giáo và CBQLGD bị coi nhẹ, thiếu kỷ cương và buông lỏng quản lý, để tiêu cực nảy sinh và kéo dài. Hệ thống chế độ, chính sách cho đội ngũ nhà giáo chậm được sửa đổi, bổ sung, chưa tạo động lực để nhà giáo, CBQLGD chuyên tâm với nghề nghiệp.

Công tác thanh tra, kiểm tra chưa được xem trọng. Đội ngũ thanh tra chuyên ngành về giáo dục chưa đủ mạnh để thanh tra quá trình dạy và học, thi cử, cấp phát văn bằng, chứng chỉ… nên cũng còn rất hạn chế trong việc đề xuất những giải pháp cho việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD. 

II. KIẾN NGHỊ

Nền giáo dục nước ta, từ một nền giáo dục bảo đảm việc học tập của một số ít người đã trở thành một nền giáo dục đại chúng đáp ứng nhu cầu học tập của mọi người trong xã hội. Chúng ta đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tiến tới xây dựng nền kinh tế tri thức và một xã hội hiện đại sẽ được hình thành trong tương lai. Vì vậy, việc đổi mới giáo dục hiện nay dù ở một lĩnh vực cụ thể nào cũng cần quán triệt để hướng tới mục tiêu cơ bản, lâu dài, đó là xây dựng một nền giáo dục hiện đại, phục vụ nhu cầu học tập đa dạng của mọi người không bị hạn chế bởi không gian, thời gian, được bình đẳng và công bằng về cơ hội tiếp cận giáo dục có chất lượng; nhà trường có điều kiện chăm lo đến sự phát triển của từng học sinh; mọi tài năng được khuyến khích, phát triển; người lao động có điều kiện học tập suốt đời để nâng cao trình độ nghề nghiệp. Xây dựng nền giáo dục hiện đại là một quá trình phải đáp ứng nhiều tiêu chí. Trước mắt, Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng cho rằng cần tập trung giải quyết cho được ba vấn đề: Một là, hiện đại về nội dung, chương trình giáo dục để kiến thức cung cấp cho người học không lạc hậu so với sự phát triển của khoa học, công nghệ và xa rời với thực tiễn Việt Nam; hai là, hiện đại về phương pháp và tổ chức quá trình dạy và học ở nhà trường, trong đó nhà giáo phải có đủ năng lực tổ chức, hướng dẫn, kiểm soát được việc học và người học là chủ thể tự giác trong lao động, sáng tạo để tích luỹ kiến thức; ba là, hiện đại về quản lý giáo dục, đẩy nhanh tiến độ áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông đa phương tiện trong giáo dục. Ba vấn đề trên đây là những định hướng có quan hệ chặt chẽ đến việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD.

Trước yêu cầu giáo dục thế hệ trẻ, đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước và tính chất lao động của nhà giáo và CBQLGD, công tác xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD cần phải được quan tâm đồng bộ trên 3 mặt: Thứ nhất là, xây dựng bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức, phẩm chất lương tâm nghề nghiệp của nhà giáo và CBQLGD; thứ hai là, thực hiện chế độ bồi dưỡng thường xuyên và định kỳ để nhà giáo và CBQLGD không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tiếp cận được với giáo dục hiện đại; thứ ba là, có cơ chế, chính sách chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhà giáo và CBQLGD. Trong những năm tới, cần tập trung vào một số vấn đề, như sau:

1. Thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD; cấp Trung ương cũng như cấp tỉnh cần có quy hoạch, kế hoạch cụ thể để xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, bảo đảm về cơ cấu và chất lượng. Cần bố trí một khoản chi ngân sách cho công tác này trong ngân sách của giáo dục hàng năm. Quy định chế độ và phương thức bồi dưỡng nhà giáo và CBQLGD thường xuyên và định kỳ.

2. Rà soát, sắp xếp lại đội ngũ nhà giáo và CBQLGD trong cả nước, có chính sách giải quyết số giáo viên dôi dư, các nhà giáo không đáp ứng yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ cũng như yêu cầu về phẩm chất đạo đức. Có cơ chế, chính sách bảo đảm đủ giáo viên ở những môn học còn thiếu như âm nhạc, mỹ thuật, công nghệ, thể dục thể thao.

Tăng quy mô đào tạo giáo viên người dân tộc thiểu số, chỉ tiêu cử tuyển cần ưu tiên dành cho nhu cầu đào tạo giáo viên phục vụ các vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số và có chính sách khuyến khích các giáo viên, nhất là giáo viên tiểu học, ở những trường có nhiều học sinh dân tộc, học tiếng dân tộc; bảo đảm chỗ ở nội trú cho giáo viên ở miền xuôi, thị xã, thị trấn lên dạy học ở vùng núi cao.

3. Đầu tư xây dựng, nâng cấp các trường sư phạm đáp ứng nhu cầu bồi dưỡng nhà giáo theo định kỳ. Tăng chỉ tiêu và bảo đảm ngân sách cho các trường sư phạm, trường CBQLGD để thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và CBQLGD.

Tăng ngân sách cho công tác nghiên cứu khoa học giáo dục ở trường đại học sư phạm Hà Nội, Trường đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh, trường bồi dưỡng CBQLGD Trung ương; mở rộng hợp tác quốc tế để xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và CBQLGD cập nhật được kiến thức hiện đại, sát với thực tiễn giáo dục Việt Nam để các trường này giữ được vai trò nòng cốt trong việc đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và CBQLGD trong hệ thống giáo dục quốc dân.

4. Bảo đảm các điều kiện cần thiết về trang thiết bị, về tài chính và đặc biệt là công tác tổ chức, cơ chế quản lý, thủ tục thanh quyết toán để tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác NCKH ở các trường đại học để giảng viên các trường đại học tích cực tham gia NCKH và coi đây là điều kiện cơ bản để nâng cao trình độ của giảng viên. Các trường đại học phải là những trung tâm NCKH và công nghệ mạnh, đó chính là một trong những điều kiện quan trọng nhất giải quyết chất lượng giáo dục đại học. Chương trình cử người đi đào tạo ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước (Chương trình 322) cần tập trung cho việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên đầu ngành ở các trường đại học để đội ngũ này có đủ năng lực làm nhiệm vụ nòng cốt trong công tác đào tạo, bồi dưỡng giảng viên. Cần mở rộng các hình thức đào tạo, bồi dưỡng du học tại chỗ như cử giảng viên học các chương trình đào tạo trên đại học liên kết với các trường đại học nước ngoài, mở các lớp bồi dưỡng mời chuyên gia nước ngoài đến giảng dạy. Trong điều kiện thiếu giảng viên đầu ngành, có thể dành một phần ngân sách mời chuyên gia giỏi; có chính sách khuyến khích, thu hút trí thức Việt kiều về nước tham gia giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên của các trường đại học, kể cả các trường sư phạm. Có chính sách huy động cán bộ khoa học ở các viện nghiên cứu tham gia giảng dạy ở các trường đại học.

5. Hoàn thiện chính sách, chế độ đối với đội ngũ nhà giáo và CBQLGD. Trước mắt, cần rà soát, ban hành các chế độ, chính sách thay thế các quy định không còn phù hợp với tình hình hiện nay, như chế độ định biên nhà giáo, các chế độ lao động, chế độ thù lao vượt giờ… Khi ban hành các chính sách, cần bảo đảm yêu cầu đồng bộ để khả thi trong thực hiện. Cho phép chính quyền cấp tỉnh được sử dụng ngân sách của địa phương chăm lo cho đời sống giáo viên và các trường đào tạo được hỗ trợ thu nhập cho nhà giáo tùy theo khả năng nguồn thu của nhà trường. Về lâu dài, cần có chế độ tiền lương bảo đảm đời sống để đội ngũ nhà giáo chuyên tâm với việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục. Có chính sách ưu đãi nhà giáo trong việc giải quyết nhà ở.

Trong công tác tuyển chọn nhà giáo và bố trí CBQLGD cần đổi mới phương thức tuyển chọn, đánh giá, bảo đảm chọn được những người có phẩm chất đạo đức, yêu nghề, có trình độ, năng lực thực chất mà không chỉ căn cứ vào bằng cấp một cách hình thức; nâng cao vai trò, trách nhiệm của ban giám hiệu và hội đồng giáo dục nhà trường trong việc tuyển chọn, sử dụng đội ngũ nhà giáo.

Đề nghị Chính phủ tổ chức nghiên cứu, ban hành chính sách cụ thể để khen và thưởng, đồng thời có hình thức tôn vinh những nhà giáo đào tạo được những học sinh đoạt giải trong các cuộc thi học sinh giỏi quốc tế, những sinh viên tài năng có đóng góp thiết thực cho việc ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và cuộc sống.

Hiện tại, có những địa phương và cơ sở đào tạo có những biện pháp thu hút các tài năng trẻ làm nghề dạy học, như việc tạo điều kiện đi bồi dưỡng nâng cao trình độ ở nước ngoài, giải quyết nhà ở, tôn vinh các nhà giáo…, nhưng chưa phải là những chính sách phổ biến.

Thực hiện chính sách được hưởng nguyên lương và các phụ cấp theo lương cho nhà giáo và CBQLGD khi đi học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ.

Đầu tư áp dụng công nghệ thông tin, tạo điều kiện cho nhà giáo tự học, tự bồi dưỡng thường xuyên để cập nhật kiến thức là biện pháp khá cơ bản để nhà giáo không lạc hậu với thông tin về giáo dục.

6. Hiện nay, nước ta đang mở rộng quy mô giáo dục đại học để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của nhân dân nên tốc độ tăng quy mô khá cao trong những năm gần đây. Trong kế hoạch kinh tế – xã hội năm 2007 của Chính phủ, tuyển mới sinh viên đại học, cao đẳng tăng 10%. Với chỉ tiêu này thì sự thiếu giảng viên sẽ tăng lên. Vì vậy, đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ có liên quan xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ giảng viên đại học và tập trung chỉ đạo thực hiện chỉ tiêu phát triển quy mô sinh viên trên cơ sở bảo đảm chất lượng. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tăng cường kiểm tra yêu cầu các trường phát triển về số lượng sinh viên cần phải bảo đảm tỷ lệ sinh viên/giảng viên theo quy định của Bộ và cũng cần phải bảo đảm tỷ lệ Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ trong mối tương quan với số lượng giảng viên và quy mô sinh viên.

Đề nghị Bộ Giáo dục - Đào tạo và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cần tổ chức thanh tra, chấn chỉnh việc dạy, việc học ở các lớp đại học tại chức mở theo sự liên kết giữa trung tâm giáo dục thường xuyên của tỉnh với các trường đại học và xử lý nghiêm những vi phạm trong quá trình tổ chức dạy và học, thi cử, kiểm tra, cấp phát văn bằng, chứng chỉ.

Đối với việc đào tạo tại chức trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có quy định tỷ lệ thời gian thỏa đáng mà người học phải về học tập trung tại trường để bảo đảm chất lượng đào tạo.

Bên cạnh việc phát triển quy mô giáo dục đại học, cũng cần quan tâm đúng mức việc xây dựng đội ngũ nhà giáo trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, vì nhu cầu công nhân kỹ thuật của các khu công nghiệp đang là một thực tế đòi hỏi giáo dục dạy nghề phải đáp ứng.

7. Tiếp tục đổi mới công tác quản lý giáo dục nói chung và quản lý đội ngũ nhà giáo nói riêng theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường đi đôi với việc tăng cường công tác thanh tra giáo dục và phải coi đây là nhiệm vụ chính yếu của đội ngũ cán bộ, chuyên viên ở các cơ quan cấp bộ, các sở, phòng giáo dục - đào tạo để cán bộ của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục từ trung ương đến cơ sở phải là những thanh tra giáo dục giỏi.

Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang đòi hỏi nước ta có một nguồn nhân lực đa cấp trình độ và chất lượng cao. Chất lượng giáo dục đang đặt trên vai đội ngũ nhà giáo và CBQLGD.

Các nhà giáo làm nhiệm vụ “trồng người”, cùng với gia đình và xã hội có trách nhiệm và vinh dự lớn trong giáo dục thế hệ trẻ. Sự mong mỏi của nhân dân đối với sự nghiệp “trồng người”, đòi hỏi đội ngũ nhà giáo, CBQLGD phải mẫu mực về đạo đức, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ đang là sự quan tâm lớn của Nhà nước, ngành Giáo dục và xã hội. Vì vậy, việc tăng cường bồi dưỡng, đào tạo nhà giáo và CBQLGD về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, về phẩm chất đạo đức và xây dựng chính sách giải quyết thu nhập cho nhà giáo một cách cơ bản để nhà giáo yên tâm tập trung hoàn thành nhiệm vụ cần được giải quyết đồng bộ trong việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD.

Trên đây là kết quả giám sát của Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội về đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề. Xin kính trình Quốc hội.

  • Trần Thị Tâm Đan

,
Ý kiến của bạn
Ý kiến bạn đọc
,
,
,
,