Sau khi VietNamNet xuất bản bài trả lời phỏng vấn của GS. Hoàng Tuy về vấn đề công nhận chức danh GS, PGS rồi đây sẽ được tiến hành hàng năm kể từ năm 2002, tòa soạn VietNamNet đã nhận được bài viết của Giáo sư Trần Thanh Đạm bày tỏ quan điểm về vấn đề này. Để rộng đường dư luận, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của GS Trần Thanh Đạm như những ý kiến khác về cùng một vấn đề, và mong quý độc giả, nhất là các GS, những nhà khoa học tiếp tục bày tỏ ý kiến của mình.
***
Những người quan tâm đến vấn đề này ở các trường ĐH đã in lại bài này và truyền cho nhau đọc. Nhờ đó, tôi (GS Trần Thanh Đạm) cũng được đọc. Có một số ít điểm GS.Hoàng Tuỵ nói tôi đồng tình, song cũng có nhiều điểm tôi không đồng ý.
Tôi chỉ xin nêu nêu sau đây một số, không phải tất cả. Vì nếu thắc mắc với tất cả bài của GS thì tôi phải viết một bài dài gấp 10 lần bài này.
Thật ra, ý kiến của GS.Hoàng Tuỵ phần lớn chỉ là những lời bài bác phủ nhận, các kiến nghị xây dựng cũng không có gì rõ ràng hoặc rất khó hiểu, cho nên tôi nghĩ chỉ nêu lên vài điểm tiêu biểu thôi cũng đủ, chủ yếu là về tính khoa học trong các lập luận của GS. Xin tự giới thiệu tôi chỉ là nhà giáo nghỉ hưu, không có trách nhiệm gì tiếp thu hay giải trình các ý kiến của GS. Hoàng Tuỵ. Vốn quan tâm đến giáo dục, tôi chỉ bàn bạc thêm cho rộng đường dư luận mà thôi. Các đồng chí có trách nhiệm ở Bộ GD - ĐT nên có sự phân tích, trao đổi lại, không nên “thủ khẩu như bình” hay “ngậm bồ hòn làm ngọt”, “sư nói cũng phải, vãi nói cũng hay”.
1. Công nhận “tiến bộ” của đợt xét công nhận chức danh GS, PGS năm 2002, GS. Hoàng Tuỵ cho rằng “trước hết có một tiến bộ đáng ghi nhận là cách gọi học hàm GS thành chức danh GS. Thực ra, chỉ ở nước ta mới coi GS là phẩm hàm để phong thưởng chứ các nước khác là chức vụ khoa học… Do quan niệm học hàm theo kiểu phong kiến nên nhiều người chỉ có chức quyền dễ dàng được phong GS, cho dù chẳng có trình độ gì. Ngược lại, nhiều nhà khoa học trẻ, rất xứng đáng thì trầy trật mãi vẫn bị loại…v.v” (Tôi xin lỗi không thể trích dài được nên có lược bớt những chỗ nói dài ra).
Tôi đồng ý là trong việc công nhận chức danh, có chuyện người có chức quyền dễ được “phong” hơn là những người trẻ tuổi. Đó là chuyện tiêu cực, song không phải do gọi là chức danh hay học hàm. Nếu chỉ đổi cách gọi như vậy thôi mà sửa được cái tiêu cực kia thì tiện quá. Hơn nữa, những người có chức quyền mà lại được có chức danh thì đúng quá đi rồi chứ sao! Còn GS. Hoàng Tuỵ hiểu học hàm là phẩm hàm phong kiến cho nên sinh ra quan niệm, tư tưởng phong kiến, thế thì bỏ học hàm đi nhưng quân hàm thì vẫn còn, thế thì quân đội ta là quân đội phong kiến sao?
GS. Hoàng Tuỵ thật là nhạy cảm, thấy hai chữ “học hàm” thì nghĩ đến đầu óc phẩm hàm, chắc thấy hai chữ “học vị” lại nghĩ đến đầu óc địa vị sao ? Thực ra, chữ "hàm" cũng như hai chữ "học hàm" chẳng có tội lỗi gì cả. GS. Hoàng Tuỵ chắc ít biết đến chữ Hán song chữ Pháp thì chắc biết rõ hơn. Nó là chữ titre, titre universitaire. Còn "phẩm hàm" là titre nobiliaire ; đó cũng là một thứ danh (tên gọi) mà thôi, có điều là dành để gọi những người sang, giữ những chức vụ đáng tôn trọng, cần tôn vinh v.v… Gọi bằng cấp trong giáo dục và khoa học là học vị, gọi chức vụ trong khoa học và giáo dục là học hàm còn rõ hơn là chức danh. Làm chức gì mà không có danh? Cán bộ, công chức, nhân viên nào mà không có chức danh : kế toán, bảo vệ, hiệu trưởng, giám đốc. GS. Hoàng Tuỵ bảo là chỉ ở ta mới có học hàm, thế thì hai chữ ấy của Trung Quốc đấy chứ. Tôi không biết Anh Mỹ gọi thế nào, nhưng tiếng Pháp thì có titre : professeur là titre, maréchal cũng là titre, GS công nhận đây là “tiến bộ đáng ghi nhận", đó là GS nói thật lòng hay nói mỉa mai ?
2. Sau khi cho rằng chức danh “tiến bộ” hơn học hàm, GS. Hoàng Tuỵ đi vào phê phán thực chất hơn. Phê phán bằng cách nào ? Bằng cách so sánh với “các nước” (GS. không nói rõ là những nước nào, tuy GS. rất hay dùng hai chữ này khi so sánh. Có lẽ nên hiểu đó là Tây so với Ta chăng ?) : “Không có nước nào có chức danh GS, PGS chung chung như ta, mà chỉ có GS, PGS của một Viện nghiên cứu hay ĐH cụ thể. Chức danh GS, PGS chung chung như ta quan niệm hiện nay chẳng khác gì học hàm…”.
Tôi nghĩ nói như thế thật oan cho “ta” vì ở ta đâu có GS nào chung chung, đều là GS ở các trường ĐH và Viện nghiên cứu cả đấy chứ, thậm chí GS ngành nào ra ngành nấy, GS. Hoàng Tuỵ thuộc ngành toán ở viện toán, tôi ở ngành văn ở ĐH Sư phạm chứ đâu có chung chung. Còn mấy ông Bộ trưởng, Thứ trưởng vốn làm công việc chung hay chung chung mà còn kèm thêm học hàm GS hay học vị TS là vì vốn xuất thân từ một ngành khoa học nào đó, một trường hay một viện nào đó, kể ra đeo thêm cái chức danh ấy vào chỉ thêm dài chứ cũng không thêm giá trị gì mấy. Dù sao số này chắc cũng không nhiều. Hoặc giả, có nhiều người cứ xưng danh GS chung chung mà không nói rõ ngành gì, ở đâu, khi xuất hiện trước công chúng hay trên báo chí thì cũng nên thông cảm với họ, có danh thì dương danh một chút cũng chẳng phải là tôi lỗi gì. Chỉ là tâm lý người đời thông thường thôi. Vả lại, ở điểm này, Ta hay Tây thì cũng giống nhau, chứ có phải Ta thì chung chung mà Tây thì riêng riêng đâu ? Còn như anh là Toán, tôi là Văn mà bàn sang giáo dục, có khi bàn cả sang chính trị, kinh tế nữa chứ, thì đó là vì trách nhiệm công dân, trách nhiệm trí thức, hơi chung chung một chút thì cũng đành chịu, chỉ xin chú ý rằng dù sao thì mình cũng đã đi ra ngoài lãnh vực của mình, cần thận trọng, khiêm tốn thì vẫn tốt hơn. Chính ở ta có một vài vị GS cứ nghĩ rằng mình là GS thì y như rằng cái gì cũng biết, phê phán hay kiến nghị cái gì cũng như đinh đóng cột, đầy những khẳng định uy quyền. Chính các vị đó mới là GS chung chung.
3. Nhận định về chất lượng GS, PGS hiện nay, trả lời về chế độ bãi nhiệm GS, PGS khi ai đó tỏ ra không xứng đáng, GS. Hoàng Tuỵ nói rằng : “Nếu thực hiện đúng biện pháp này thì phải thu hồi cả chức danh của những vị không xứng đáng, như thế có thể đến 1/3 số GS, PGS của ta bị thu hồi chức danh”. Tôi thực sự lấy làm ngạc nhiên khi một nhà khoa học, hơn nữa một nhà toán học, lại đưa ra một nhận định “chính xác” đến như vậy? Dựa theo điều tra nào? Thống kê nào? Nguồn dữ liệu nào? Đã có tiến hành điều tra xã hội học theo đúng phương pháp khoa học chặt chẽ về chất lượng GS, PGS hiện nay trên cả nước, ở mọi chuyên ngành, ở mọi thế hệ, ở mọi cơ sở giáo dục và khoa học để đưa ra một nhận định như vậy chưa? Nếu đây chỉ là phỏng đoán hay trực giác thì hoặc là trực giác của một thiên tài hoặc phỏng đoán của một thầy bói, chứ tuyệt nhiên không phải là nhận định khoa học của một nhà khoa học.
Có thể GS. Hoàng Tuỵ (và cả người phỏng vấn nữa) nghĩ rằng đưa ra một con số “động trời” như vậy để cho các vị GS, PGS có thân phải lo, nghĩ lại mà sợ, từ đó mà khiêm tốn, chăm chỉ học hành, nghiên cứu để khỏi bị “thu hồi chức danh”. Song tôi trộm nghĩ rằng: sẽ không có vị GS, PGS nào sợ điều ấy cả. Vì ai cũng nghĩ rằng mình không thuộc vào số 1/3 kia. Trong truyện "Chí Phèo" của Nam Cao, nhà văn kể rằng, có lần Chí Phèo uống rượu say vào, nó chửi cả làng Vũ Đại, nhưng cả làng Vũ Đại chẳng có ai ra lời, vì ai cũng nghĩ : “Nó chừa mình ra”. Tôi nghĩ dù có nâng 1/3 lên 3/4 thì cũng không có tác dụng gì vì mọi GS, PGS, kể cả tôi, cũng đều nghĩ thầm: mình được chừa ra. Thế thì giá trị khoa học cũng như giá trị giáo dục của cái nhận định 1/3 kia nào có được là bao nhiêu. Chỉ anh nào phạm kỷ luật hay phạm pháp luật thì bị thu hồi chức danh, song cũng không thể đến 1/3 tổng số GS, PGS hiện hành.
4. Đề cập đến tổng kết của Bộ GD - ĐT cho rằng, hiện nay mới có 50% giảng viên ĐH tham gia nghiên cứu khoa học (con số quá tròn này quả thật đáng ngờ!), GS. Hoàng Tuỵ châm biếm cũng bằng cách so sánh với “các nước” : "Theo tôi biết nhiều ĐH lớn ở các nước cũng chỉ đạt tỉ lệ khoảng 2/3 giảng viên có nghiên cứu khoa học. Đối với số đông các trường ĐH làng nhàng của họ thì hàng năm có 50% GV nghiên cứu khoa học đã là khả quan”. Còn ta 50% “Nghe thật sướng tai vì như vậy còn chê trách ĐH Việt Nam nỗi gì”. GS có nói thêm nữa chỉ để chứng minh rằng “cái gọi là công trình KH ở nước ta… rất thấp.."
Tôi nghĩ rằng những ý kiến trên đây của GS.Hoàng Tuỵ chỉ có ý nhắc nhở, giáo huấn các trường ĐH và Bộ GD - ĐT chú ý nâng cao nhận thức và tiêu chuẩn NCKH cũng như các luận văn, luận án ở các trường ĐH cho bằng “các nước” thôi. Song lời lẽ phát biểu như vậy, tôi e rằng do người phỏng vấn “tố” thêm vào cho có vẻ giật gân. Dù sao thì tất cả những cái gọi là % của Bộ GD & ĐT cũng như của GS. Hoàng Tuỵ đưa ra hiển nhiên là những sự suy đoán chủ quan, không xuất xứ từ một nguồn nghiên cứu khoa học nào cả. Khoa học giáo dục có ngành Giáo dục học so sánh.
Để so sánh giáo dục nước này với nước kia, cần phải làm các công trình nghiên cứu cẩn thận, nghiêm túc, không thể “cương” ra, “tố” ra các con số này, phần trăm nọ mà có thể thuyết phục được ai đó. Có những nhà khoa học trong lãnh vực của mình thì đòi hỏi chính xác rất cao, song sang các lĩnh vực khác (nhất là về Khoa học xã hội) thì đòi hỏi chính xác đó không còn nữa. Đến một chút “thận trọng trí thức” (probité intellectuelle) cũng không có nữa. Thiếu một thái độ thận trọng như thế, các ý kiến nêu ra thường chỉ chứng minh ở họ những điều mà họ phê phán người khác. Trong giáo dục, tôi thấy nhiều nhà khoa học còn “duy ý chí” hơn cả các nhà chính trị. Có lẽ các nhà chính trị thì “kinh cung chi điểu” (chim sợ cung rồi), còn các nhà khoa học, nhất là khoa học không phải ở “các nước” mà ở “nước ta”, thì chưa phải cung lần nào nên không sợ cây cong.
Như đã nói, tôi không thể điểm hết các ý kiến trong bài trả lời phỏng vấn của GS. Hoàng Tuỵ, chỉ nêu lên một số để minh hoạ cho một kiểu phê bình giáo dục có thể gọi là khá phổ biến hiện nay, kể cả ở những người cần làm gương về tư duy chính xác, hợp lý hợp tình, tránh mọi sự cực đoan, quá khích. Đó là các nhà khoa học mà bàn dân thiên hạ, nhất là thế hệ học sinh, sinh viên, trí thức trẻ đang ngưỡng mộ, trông vào như những khuôn mẫu, thậm chí như những thần tượng!
Thẩm định và công nhận chức danh hay học hàm GS, PGS cũng như toàn bộ sự nghiệp giáo dục của chúng ta quả thực là “trăm mối tơ vò”, khiến không ai có thể bình tâm được. Đụng vào đâu cũng có chuyện để kêu ca, phàn nàn. Bản thân tôi cũng nhiều lần bức bối, chán nản hay nóng giận. Nhưng nghĩ lại có lẽ không có phép mầu nào giúp chúng ta thoát khỏi tình trạng này ngay tức khắc. Nếu có phép mầu đó cũng là do chúng ta biết cách sắp xếp, tổ chức lại công việc một cách kiên nhẫn, cẩn thận, chu đáo. Gỡ mối tơ vò không thể nóng vội, oán trách, đổ lỗi cho nhau.
Có lẽ đã đến lúc nếu không dừng hẳn thì cũng giảm bớt đi những cách phê phán nặng nề, “nói cho đã”, mà phải bình tĩnh gỡ từng mối rối, từ phổ thông đến chuyên nghiệp đến ĐH và trên ĐH v.v… theo những đề án có chuẩn bị, có tính toán, suy nghĩ, có thảo luận dân chủ rộng rãi và tập trung kiên quyết, cả hai đều với tinh thần trách nhiệm rất cao và tình thương yêu rất sâu. Không thể “người nói không có lỗi, người nghe phải răn mình” hoặc “dù ai nói ngả nói nghiêng, lòng ta vẫn vững như kiềng … hai chân”.
- Trần Thanh Đạm
10/7/2003