Nhiều người muốn biết nội dung công trình của Ngô Bảo Châu, nhưng đây là việc không dễ dàng. Chúng tôi tiếp tục cung cấp thêm cho bạn đọc rộng rãi một cách diễn đạt nôm na dễ hiểu khác về vấn đề này. Trân trọng cám ơn các nhà khoa học Toán Lý B.Q.Ngọc và Đ.T.Khoa cung cấp những thông tin bổ ích.
TIN LIÊN QUAN |
---|
Giải tích và Đại số, đôi chân của “Bổ đề”
Trong lĩnh vực toán lý thuyết, có hai nhánh lớn là Đại số và Giải tích.
Còn trong lĩnh vực toán lý thuyết, Đại số là ngành lý thuyết toán trừu tượng hơn nhiều, có nhiệm vụ nghiên cứu các phép toán trên các tập hợp.
Vinh quang trở về Tổ quốc (Ảnh internet). |
Giữa hai ngành toán - Đại số và Lý thuyết số, có rất nhiều khái niệm gần nhau như tuần hoàn (như hàm sin hay cos), đối xứng, đồng cấu (có cấu trúc đồng dạng qua các phép toán), đẳng cấu (đồng cấu mà cấu trúc đồng dạng là 1-1, tức rất giống nhau, như sinh đôi)...
Với những lý do nói trên, năm 1967 Langlands đề xuất mối liên hệ mật thiết giữa đại số và giải tích (bộ phận của lý thuyết số), hoặc cụ thể hơn là sự tương ứng giữa một lớp nhóm (nhóm Lie semi-simple) và hình thức tự cấu (một khái niệm liên quan đến đồng cấu). Đấy là chương trình Langlands, một lý thuyết thống nhất lớn của toán học.
Nhưng chương trình Langlands cần phải dựa trên “bổ đề cơ bản” (bổ đề là một mệnh đề Toán học mà từ đó người ta có thể có các kết quả quan trọng khác). Và nhiều người giành trí lực chứng minh bổ đề này. Bản thân Langlands và các cộng sự cũng chứng minh được cho một vài trường hợp riêng, nhiều người khác cũng thu được kết quả chứng minh cho nhiều trường hợp riêng khác.
Riêng Ngô Bảo Châu và vị thầy của mình – GS Laumon cũng chứng minh được một trường hợp quan trọng vào năm 2003, nhờ đó hai thầy trò nhận được giải thưởng Clay năm 2004.
Với thành công lớn lao mà giới toán học bó tay trong 30 năm ròng này, Tạp chí Time đã chọn công trình của Ngô Bảo Châu là một trong 10 công trình khoa học quan trọng nhất của năm 2009. Và việc gì phải đến đã đến. GS Ngô Bảo Châu đã được trao phần thưởng cao quý nhất Toán học thế giới - huy hiệu, giải thưởng Fields năm 2010.
T.T.M.