|
Lauterbur (trái) và Mansfield. |
Viện Karolinska của Thuỵ Điển vừa công bố: nhà khoa học Paul C. Lauterbur người Mỹ và Peter Mansfield người Anh đã đồng giành giải Nobel Y học 2003 do những khám phá về kỹ thuật hình ảnh cộng hưởng từ.
Tiến sĩ Lauterbur, 74 tuổi, ĐH Illinois, phát hiện khả năng tạo ra một hình ảnh hai chiều bằng cách đưa gradient vào trường từ tính. Bằng cách phân tích các đặc điểm của sóng radio được phát ra, ông có thể xác định nguồn gốc của chúng. Điều này giúp xây dựng những hình ảnh 2 chiều về các cấu trúc mà không thể có được bằng các phương pháp khác.
Tiến sĩ Mansfield, 70 tuổi, ĐH Nottingham, đã tiếp tục phát triển việc sử dụng gradient trong trường từ tính. Ông chỉ ra cách các tín hiệu có thể được phân tích bằng toán học, giúp các nhà nghiên cứu phát triển một kỹ thuật hình ảnh hữu ích. Ông cũng chỉ ra có thể đạt được hình ảnh cực nhanh bằng cách nào. Kỹ thuật hình ảnh công hưởng từ đã được áp dụng trong y học 1 thập kỷ sau đó.
Kỹ thuật hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) hiện đã trở thành một phương pháp thông thường trong chẩn đoán y học. Các thiết bị MRI đầu tiên trong y học xuất hiện vào đầu những năm 1980. Vào năm 2002, có ần 22.000 camera MRI được sử dụng trên toàn thế giới. Trên toàn thế giới mỗi năm có hơn 60 triệu ca chẩn đoán bằng MRI và phương pháp này vẫn đang phát triển nhanh. MRI thường tốt hơn các kỹ thuật hình ảnh khác và đã cải thiện đáng kể độ chính xác trong việc chẩn đoán nhiều căn bệnh. Nó thay thế một số phương pháp kiểm tra theo kiểu thâm nhập thiết bị vào cơ thể, do đó giảm đau đớn, rủi cũng như sự bất tiện cho nhiều bệnh nhân. Chẳng hạn như sử dụng phương pháp nội soi kiểm tra tuyến tuỵ hoặc tuyến mật có thể gây biến chứng nghiêm trọng.
Lợi thế của MRI là tính vô hại. Nó không sử dụng bức xạ ion hoá giống như phương pháp chụp X quang thông thường (Nobel Vật lý -1901) hoặc chụp X quang máy tính (Nobel Y học -1979). Tuy nhiên, bệnh nhân được tiêm kim loại từ hoặc mang máy điều hoà nhịp tim không thể được kiểm tra bằng MRI bởi MRI có trường từ tính mạnh. Ngày nay, MRI được sử dụng để kiểm tra gần như mọi cơ quan trong cơ thể. Kỹ thuật này đặc biệt có giá trị trong việc chụp ảnh chi tiết não hoặc dây cột sống. Kể từ khi MRI mang lại những hình ảnh 3 chiều, bác sĩ có thể nắm được thông tin về địa điểm thương tổn. Những thông tin như vậy rất có giá trị trước khi phẫu thuật chẳng hạn như tiểu phẫu não.
Nobel Y học - 2002
|
3 nhà khoa học giành giải Nobel Y học 2002. |
Hai nhà khoa học Sydney Brenner và John Sulston của Anh, và nhà khoa học Robert Horvitz của Mỹ đã giành được Giải thưởng Nobel Y học - 2002. Họ đã có những khám phá quan trọng về cơ chế tác động của gene đối với các cơ quan, cũng như sự chấm dứt hoạt động sống của tế bào. Những khám phá đó làm sáng tỏ quá trình phát triển của nhiều căn bệnh. Công việc của họ được tiến hành trên giun tròn. 40% gene của loài này liên quan mật thiết với gene của con người. Vì vậy, giun tròn giúp giới khoa học hiểu các tiến trình bệnh tật ở người, làm sáng tỏ các căn bệnh chẳng hạn như ung thư, AIDS, đột quỵ và đau tim.
Nobel là giải thưởng quốc tế đầu tiên, vinh dự nhất, được trao hàng năm theo ý nguyện Alfred Bernhard Nobel - nhà hoá học, kỹ sư và đồng thời là một nhà tư bản người Thuỵ Điển - cho những cá nhân đã có đóng góp nổi bật nhất trong lĩnh vực vật lý, hoá học, tâm lý học hoặc y học; cá nhân đóng góp nhiều nhất cho hoà bình thế giới và người đã viết tác phẩm văn học xuất sắc nhất. Lễ trao giải chính thức diễn ra vào ngày 10/12 hàng năm - ngày Nobel qua đời. Tuy nhiên, tên của người giành giải thưởng được công bố vào tháng 10 bởi các tổ chức khác nhau.
Alfred Bernhard Nobel
Alfred Nobel sinh ngày 21/10/1833 tại Stockholm, Thuỵ Điển, trong một gia đình có nhiều thành viên làm kỹ sư. Khi lên 9 tuổi, ông theo gia đình tới Nga. Tại đó, ông và anh em trai được các gia sư dạy những bài học đầu tiên về lòng nhân đạo và khoa học tự nhiên. Khi còn trẻ, ông đi nhiều nơi và thông thạo 5 ngôn ngữ. Nobel quan tâm tới văn học. Ông đã viết một số tiểu thuyết, thơ và kịch vào thời gian rỗi. Vào năm 1960, ông bắt đầu tiến hành các thí nghiệm với nitroglycerin trong nhà máy của cha đẻ, Immanuel Nobel.
Nobel phát đã thử nhiều cách để ổn định loại vật liệu không ổn định này. Cuối cùng ông phát hiện trộn nitroglycerin với một loại bột mịn, xốp có tên kieselguhr là hiệu quả nhất. Ông đặt tên cho hỗn hợp trên là dynamite và nhận được bằng sáng chế vào năm 1867. Nobel xây dựng nhà máy khắp thế giới để sản xuất dynamite và các loại thuốc nổ khác. Các công ty xây dựng và khai thác mỏ cũng như quân đội cần rất nhiều loại thuốc nổ tương đối an toàn này. Dynamite đã mang lại cho Nobel nhiều tiền. Những nghiên cứu khác của ông đã cung cấp thông tin giá trị về sự phát triển của cao su nhân tạo, da, tơ và đá quý.
|
Alfred Nobel. |
Vào ngày 27/11/1895, Nobel ký di chúc cuối cùng tại Câu lạc bộ Thuỵ Điển-Na Uy ở Paris, Pháp. Ông qua đời do mắc bệnh xuất huyết não tại nhà riêng ở San Remo, Italia vào ngày 10/12/1896. Ông để lại một khoản tiền 9 triệu USD trong di chúc. Lãi suất của nó sẽ được sử dụng làm phần thưởng cho những người mà nghiên cứu của họ có lợi nhất cho nhân loại.
Hiệp hội Nobel được thành lập vào năm 1900 theo di chúc của Alfred Nobel. Đó là một tổ chức tư nhân quản lý các tài sản mà Nobel di chúc lại làm phần thưởng cho những cá nhân đoạt giải Nobel hoá học, vật lý, tâm lý học hoặc y học, văn học và hoà bình.
Tiến trình lựa chọn
Việc lựa chọn người giành giải tưởng bắt đầu vào đầu mùa thu của năm trước khi các tổ chức trao giải mời hơn 6.000 người khắp thế giới đề cử cá nhân xứng đáng nhận các giải Nobel. Có khoảng 1.000 người đề cử cho mỗi giải thưởng. Họ là những người đã từng nhận giải Nobel, thành viên của chính tổ chức trao thưởng, các chuyên gia trong lĩnh vực vật lý, hoá học, tâm lý học hoặc y học, các quan chức và thành viên của nhiều trường đại học và các viện nghiên cứu. Người được mời phải đề cử bằng văn bản, nêu rõ lý do lựa chọn. Các cá nhân không thể tự đề cử (trái ngược hoàn toàn với giải Ig Nobel).
Văn bản đề cử phải được trình lên các uỷ ban Nobel trước ngày 31/1 của năm trao giải. Uỷ ban Nobel do 4 tổ chức trao giải lập ra. Thường có khoảng 100-250 người được đề cử cho mỗi giải. Vào ngày 1/2, 6 Uỷ ban Nobel - mỗi uỷ ban quyết định một loại giải thưởng - bắt đầu xem xét các văn bản đề cử mà họ nhận được. Có hàng nghìn người, chủ yếu là chuyên gia bên ngoài, tham gia cùng với các uỷ ban để quyết định tính sáng tạo và tầm quan trọng liên quan tới đóng góp của người được đề cử.
Vào tháng 9 và đầu tháng 10, các uỷ ban Nobel sẵn sàng đệ trình ý kiến lựa chọn của họ lên Viện hàn lâm khoa học Hoàng gia Thuỵ Điển và các tổ chức trao thưởng khác. Không phải lúc nào các tổ chức trao thưởng cũng làm theo sự tiến cử của uỷ ban. Các phiên họp và bỏ phiếu trong các tổ chức trao giải được giữ bí mật ở mọi khâu. Chỉ có kết quả được thông báo công khai. Quyết định cuối cùng của các tổ chức phải được đưa ra trước ngày 15/11 và không thể thay đổi. Giải thưởng chỉ được trao cho các cá nhân, ngoại trừ giải Nobel Hoà Bình. Nobel Hoà bình có thể được trao cho một tổ chức.
Theo điều lệ của Hiệp hội Nobel, thông tin đề cử sẽ không được tiết lộ, dù là công khai hoặc bí mật, trong thời gian 50 năm. Không thể đề cử một cá nhân sau khi người đó đã chết. Kể từ năm 1974, giải thưởng Nobel chỉ có thể được trao cho một người đã chết trong trường hợp cá nhân đó đã được chọn là người nhận giải của năm vào thời điểm còn sống song qua đời trước lễ trao giải vào ngày 10/12. Sự ủng hộ chính thức, dù là ngoại giao hay chính trị, cho một người nào đó không có tác động tới tiến trình lựa chọn bởi các tổ chức trao giải độc lập với nhà nước.
Giải thưởng
Mỗi giải thưởng bao gồm một huy chương vàng, một bằng khen và một khoản tiền. Số tiền phụ thuộc vào thu nhập của Hiệp hội Nobel.
Ban đầu, hơn ba người có thể cùng nhận một giải Nobel mặc dầu điều này chưa bao giờ xảy ra. Điều lệ của Tổ chức Nobel được sửa đổi vào năm 1968, hạn chế chỉ có 3 người đồng nhận một giải thưởng. Trong trường hợp đó, mỗi người có thể nhận 1/3 khoản tiền hoặc 2 người có thể chia nhau 50% số tiền thưởng trong khi người thứ ba nhận 50% còn lại. Thỉnh thoảng một giải Nobel bị giữ lại cho tới năm sau. Nếu chưa được trao, số tiền thưởng sẽ được trả lại quỹ. Do vậy, hai giải thưởng cùng loại (chẳng hạn 2 giải vật lý) có thể được trao trong một năm.
Nếu một giải thưởng bị từ chối hoặc không được chấp nhận trước một thời điểm nhất định, số tiền thưởng sẽ được trả vào quỹ. Trong quá khứ, đã có trường hợp người giành giải từ chối nhận phần thưởng và chính phủ cấm công dân nước họ nhận thưởng. Khi đó, bên cạnh tên của người nhận giải trong danh sách những người giành giải Nobel sẽ có dòng chữ ''từ chối nhận giải''.
Động cơ dẫn tới hành động từ chối nhận giải Nobel có thể khác nhau song lý do thực sự chủ yếu là áp lực bên ngoài. Chẳng hạn vào năm 1937, Adolf Hitler cấm người Đức nhận giải Nobel trong tương lai bởi ông ta tức giận khi Giải Nobel Hoà bình 1935 được trao cho nhà báo chống phát xít Carl von Ossietzky. Vào thời điểm đó, Carl von Ossietzky là tù chính trị tại Đức. Trong một số trường hợp, người từ chối giải thích và chỉ nhận huy chương vàng cùng với bằng khen. Giải Nobel vật lý, hoá học, tâm lý học hoặc y học ít gây tranh cãi nhất. Do bản chất, Nobel văn học và hoà bình gây tranh cãi nhiều nhất. Cho tới nay, giải Nobel không được trao vào năm 1940, 1941 và 1942. Giải Nobel văn học không được trao vào năm 1914, 1918 và 1943.
(Minh Sơn - Tổng hợp)