|
Huy chương Nobel. |
Trong tuần qua, cả thế giới náo nức hướng về Thuỵ Điển và Na Uy đón chờ giây phút Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Thuỵ Điển, Viện Karolinska, Viện Thuỵ Điển và Uỷ ban Nobel Na Uy công bố tên của những cá nhân được trao giải Nobel Văn học, Y học, Vật lý, Hoá học, Kinh tế và Hoà bình 2003. Bốn châu lục Âu, Á, Phi, Mỹ cùng chia sẻ giải thưởng quốc tế, vinh dự nhất này. Lễ trao giải sẽ diễn ra vào ngày 10/12 tại Stockholm và Na Uy - ngày Alfred Bernhard Nobel qua đời.
|
Nhà văn Maxwell Coetzee. |
Nhà văn Nam Phi John Maxwell Coetzee vinh dự nhận giải Nobel Văn học 2003. Ông xúc động nói: "6h sáng, tôi nhận được một cú điện thoại từ Stockholm báo tin này và tôi thực sự ngỡ ngàng". Coetzee là nhà văn châu Phi thứ 4 nhận được giải thưởng danh giá này kể từ năm 1980.
|
Lauterbur (trái) và Mansfield. |
Nhà khoa học Paul C. Lauterbur người Mỹ và Peter Mansfield người Anh đã đồng giành Giải Nobel Y học 2003 do những khám phá về kỹ thuật hình ảnh cộng hưởng từ (MRI). Phát hiện đó đã dẫn tới sự phát triển của MRI hiện đại trong y học - phương pháp cung cấp hình ảnh 3 chiều về các cơ quan bên trong cơ thể con người.
|
Vitaly L. Ginzburg, Anthony J. Leggett và Alexei A. Abrikosov (trái qua phải). |
Giải Nobel Vật lý 2003 thuộc về ba nhà nhà vật lý Alexei A. Abrikosov thuộc Phòng thí nghiệm quốc gia Argonne (Mỹ); Anthony J. Leggett thuộc ĐH Illinois (Mỹ) và Vitaly L. Ginzburg thuộc Viện vật lý P.N. Lebedev (Nga). Họ đã có những đóng góp mang tính quyết định liên quan tới hai hiện tượng trong vật lý lượng tử: tính siêu dẫn và siêu lỏng.
|
Peter Agre và Roderick MacKinnon (trái qua phải). |
Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Thuỵ Điển quyết định trao Giải Nobel Hoá học cho hai nhà khoa học người Mỹ Peter Agre, thuộc ĐH Johns Hopkins và Roderick MacKinnon thuộc Viện Hóa học Howard Hughes do làm sáng tỏ cách muối (ion) và nước được vận chuyển vào và ra khỏi các tế bào trong cơ thể. Khám phá này đã mở đường cho một loạt các nghiên cứu về hoá sinh, sinh lý học và di truyền liên quan tới các kênh vận chuyển nước ở vi khuẩn, thực vật cũng như động vật có vú.
|
Robert F. Engle và Clive W. J. Granger (trái qua phải). |
Giải Nobel Kinh tế 2003 sẽ được trao cho hai nhà khoa học Mỹ Robert F. Engle, 60 tuổi, thuộc ĐH New York và Clive W. J. Granger, 69 tuổi, thuộc ĐH California do đã đưa ra các phương pháp phân tích số liệu kinh tế theo chuỗi thời gian. Nghiên cứu của họ mang tới cho các nhà kinh tế những công cụ mới để đánh giá rủi ro.
|
Bà Shirin Ebadi. |
Ủy ban Hoà bình gồm 5 thành viên do Quốc hội Na Uy chỉ định trong nhiệm kỳ 6 năm vừa đã quyết định trao Giải Nobel Hoà bình 2003 cho bà Shirin Ebadi - người đã có nhiều đóng góp vào dân chủ và nhân quyền, đặc biệt là nỗ lực đấu tranh đòi quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em. Giải thưởng này sẽ truyền cảm hứng cho tất cả những cá nhân đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền tại quốc gia của bà, trong thế giới Hồi giáo và tại tất cả các quốc gia nơi cuộc đấu tranh vì nhân quyền cần được thúc đẩy và ủng hộ.
Alfred Bernhard Nobel
Alfred Nobel sinh ngày 21/10/1833 tại Stockholm, Thuỵ Điển, trong một gia đình có nhiều thành viên làm kỹ sư. Khi lên 9 tuổi, ông theo gia đình tới Nga. Tại đó, ông và anh em trai được các gia sư dạy những bài học đầu tiên về lòng nhân đạo và khoa học tự nhiên. Khi còn trẻ, ông đi nhiều nơi và thông thạo 5 ngôn ngữ. Nobel quan tâm tới văn học. Ông đã viết một số tiểu thuyết, thơ và kịch vào thời gian rỗi. Vào năm 1960, ông bắt đầu tiến hành các thí nghiệm với nitroglycerin trong nhà máy của cha đẻ, Immanuel Nobel.
Nobel phát đã thử nhiều cách để ổn định loại vật liệu không ổn định này. Cuối cùng ông phát hiện trộn nitroglycerin với một loại bột mịn, xốp có tên kieselguhr là hiệu quả nhất. Ông đặt tên cho hỗn hợp trên là dynamite và nhận được bằng sáng chế vào năm 1867. Nobel xây dựng nhà máy khắp thế giới để sản xuất dynamite và các loại thuốc nổ khác. Các công ty xây dựng và khai thác mỏ cũng như quân đội cần rất nhiều loại thuốc nổ tương đối an toàn này. Dynamite đã mang lại cho Nobel nhiều tiền. Những nghiên cứu khác của ông đã cung cấp thông tin giá trị về sự phát triển của cao su nhân tạo, da, tơ và đá quý.
Vào ngày 27/11/1895, Nobel ký di chúc cuối cùng tại Câu lạc bộ Thuỵ Điển-Na Uy ở Paris, Pháp. Ông qua đời do mắc bệnh xuất huyết não tại nhà riêng ở San Remo, Italia vào ngày 10/12/1896. Ông để lại một khoản tiền 9 triệu USD trong di chúc. Lãi suất của nó sẽ được sử dụng làm phần thưởng cho những người mà nghiên cứu của họ có lợi nhất cho nhân loại. Viện hàn lâm khoa học Hoàng gia Thuỵ Điển trao giải Nobel hoá học và vật lý . Giải tâm lý học hoặc y học do Viện Karolinska tại Stockholm trao. Nobel văn học do Viện Thuỵ Điển trao. Một uỷ ban gồm 5 người do Quốc hội Na Uy lựa chọn trao giải Nobel hoà bình. Vào năm 1968, Ngân hàng Thuỵ Điển lập nên giải thưởng Nobel Khoa học kinh tế để tưởng nhớ tới nhà phát minh ra thuốc nổ.
Hiệp hội Nobel được thành lập vào năm 1900 theo di chúc của Alfred Nobel. Đó là một tổ chức tư nhân quản lý các tài sản mà Nobel di chúc lại làm phần thưởng cho những cá nhân đoạt giải Nobel hoá học, vật lý, tâm lý học hoặc y học, văn học và hoà bình. Hiệp hội Nobel là cơ quan quản lý chung 4 tổ chức trao thưởng. Tuy nhiên, Hiệp hội Nobel không tham gia vào các phiên họp cũng như quyết định trao giải. Quyền quyết định thuộc về 4 tổ chức trên.
Tiến trình lựa chọn
Việc lựa chọn người giành giải tưởng bắt đầu vào đầu mùa thu của năm trước khi các tổ chức trao giải mời hơn 6.000 người khắp thế giới đề cử cá nhân xứng đáng nhận các giải Nobel. Có khoảng 1.000 người đề cử cho mỗi giải thưởng. Họ là những người đã từng nhận giải Nobel, thành viên của chính tổ chức trao thưởng, các chuyên gia trong lĩnh vực vật lý, hoá học, tâm lý học hoặc y học, các quan chức và thành viên của nhiều trường đại học và các viện nghiên cứu. Người được mời phải đề cử bằng văn bản, nêu rõ lý do lựa chọn. Các cá nhân không thể tự đề cử (trái ngược hoàn toàn với giải Ig Nobel).
Văn bản đề cử phải được trình lên các uỷ ban Nobel trước ngày 31/1 của năm trao giải. Uỷ ban Nobel do 4 tổ chức trao giải lập ra. Thường có khoảng 100-250 người được đề cử cho mỗi giải. Vào ngày 1/2, 6 Uỷ ban Nobel - mỗi uỷ ban quyết định một loại giải thưởng - bắt đầu xem xét các văn bản đề cử mà họ nhận được. Có hàng nghìn người, chủ yếu là chuyên gia bên ngoài, tham gia cùng với các uỷ ban để quyết định tính sáng tạo và tầm quan trọng liên quan tới đóng góp của người được đề cử.
Vào tháng 9 và đầu tháng 10, các uỷ ban Nobel sẵn sàng đệ trình ý kiến lựa chọn của họ lên Viện hàn lâm khoa học Hoàng gia Thuỵ Điển và các tổ chức trao thưởng khác. Không phải lúc nào các tổ chức trao thưởng cũng làm theo sự tiến cử của uỷ ban. Các phiên họp và bỏ phiếu trong các tổ chức trao giải được giữ bí mật ở mọi khâu. Chỉ có kết quả được thông báo công khai. Quyết định cuối cùng của các tổ chức phải được đưa ra trước ngày 15/11 và không thể thay đổi. Giải thưởng chỉ được trao cho các cá nhân, ngoại trừ giải Nobel Hoà Bình. Nobel Hoà bình có thể được trao cho một tổ chức.
Theo điều lệ của Hiệp hội Nobel, thông tin đề cử sẽ không được tiết lộ, dù là công khai hoặc bí mật, trong thời gian 50 năm. Không thể đề cử một cá nhân sau khi người đó đã chết. Kể từ năm 1974, giải thưởng Nobel chỉ có thể được trao cho một người đã chết trong trường hợp cá nhân đó đã được chọn là người nhận giải của năm vào thời điểm còn sống song qua đời trước lễ trao giải vào ngày 10/12. Sự ủng hộ chính thức, dù là ngoại giao hay chính trị, cho một người nào đó không có tác động tới tiến trình lựa chọn bởi các tổ chức trao giải độc lập với nhà nước.
Giải thưởng
Mỗi giải thưởng bao gồm một huy chương vàng, một bằng khen và một khoản tiền. Số tiền phụ thuộc vào thu nhập của Hiệp hội Nobel. Ban đầu, hơn ba người có thể cùng nhận một giải Nobel mặc dầu điều này chưa bao giờ xảy ra. Điều lệ của Tổ chức Nobel được sửa đổi vào năm 1968, hạn chế chỉ có 3 người đồng nhận một giải thưởng. Trong trường hợp đó, mỗi người có thể nhận 1/3 khoản tiền hoặc 2 người có thể chia nhau 50% số tiền thưởng trong khi người thứ ba nhận 50% còn lại. Thỉnh thoảng một giải Nobel bị giữ lại cho tới năm sau. Nếu chưa được trao, số tiền thưởng sẽ được trả lại quỹ. Do vậy, hai giải thưởng cùng loại (chẳng hạn 2 giải vật lý) có thể được trao trong một năm.
Nếu một giải thưởng bị từ chối hoặc không được chấp nhận trước một thời điểm nhất định, số tiền thưởng sẽ được trả vào quỹ. Trong quá khứ, đã có trường hợp người giành giải từ chối nhận phần thưởng và chính phủ cấm công dân nước họ nhận thưởng. Khi đó, bên cạnh tên của người nhận giải trong danh sách những người giành giải Nobel sẽ có dòng chữ ''từ chối nhận giải''.
Động cơ dẫn tới hành động từ chối nhận giải Nobel có thể khác nhau song lý do thực sự chủ yếu là áp lực bên ngoài. Chẳng hạn vào năm 1937, Adolf Hitler cấm người Đức nhận giải Nobel trong tương lai bởi ông ta tức giận khi Giải Nobel Hoà bình 1935 được trao cho nhà báo chống phát xít Carl von Ossietzky. Vào thời điểm đó, Carl von Ossietzky là tù chính trị tại Đức. Trong một số trường hợp, người từ chối giải thích và chỉ nhận huy chương vàng cùng với bằng khen. Giải Nobel vật lý, hoá học, tâm lý học hoặc y học ít gây tranh cãi nhất. Do bản chất, Nobel văn học và hoà bình gây tranh cãi nhiều nhất. Cho tới nay, giải Nobel không được trao vào năm 1940, 1941 và 1942. Giải Nobel văn học không được trao vào năm 1914, 1918 và 1943.
(Minh Sơn - Tổng hợp) |