Việt Nam đang nỗ lực thúc đẩy đàm phán nhằm mục tiêu sớm trở thành thành viên của WTO. Tiến trình đàm phán đã đạt được những kết quả quan trọng.
Về song phương, Việt Nam đã kết thúc đàm phán với trên 20 đối tác và đang tích cực thúc đẩy đàm phán với số đối tác còn lại. Về đa phương, đàm phán đang rà soát và hoàn thiện dự thảo báo cáo về gia nhập WTO của Việt Nam. Khả năng Việt Nam hoàn tất quá trình đàm phán và gia nhập WTO trong thời gian tới đang trở thành hiện thực.
Gia nhập WTO cũng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp Nhà nước sẽ có cơ hội tham gia vào sân chơi mới với các luật chơi chung toàn cầu. |
Gia nhập WTO sẽ đem lại cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi Việt Nam phải sớm triển khai những bước chuẩn bị cần thiết để bảo đảm nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao, hạn chế tối đa các tác động tiêu cực và giúp Việt Nam tham gia hiệu quả vào nền kinh tế thế giới trong thời gian tới.
Vấn đề này đặt ra đối với hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề, thành phần kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp với tư cách là bộ phận cấu thành của nền kinh tế.
Xuất phát từ mong muốn đóng góp vào quá trình chuẩn bị này, Bộ Ngoại giao với sự phối hợp hỗ trợ của một số cơ quan trong và ngoài nước tổ chức hội thảo “Việt Nam gia nhập WTO: cơ hội và thách thức”. Hội thảo tổ chức như một diễn đàn nhằm đánh giá và phân tích các cơ hội và thách thức của Việt Nam khi trở thành thành viên của WTO. Chúng tôi xin giới thiệu tới các bạn một số nội dung quan trọng tại hội thảo này.
Doanh nghiệp Nhà nước trước “đấu trường thương mại”
Ông Nguyễn Ngọc Phúc, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư
“Việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ cho phép hàng hoá nhập khẩu có cơ hội thâm nhập sâu hơn vào thị trường trong nước.” |
“Trở thành thành viên của WTO, các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam sẽ có cơ hội tận dụng được nhiều điều kiện thuận lợi do những nguyên tắc và quy định của tổ chức này đem lại để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường xuất khẩu và từng bước tham gia vào các chuỗi giá trị, dây chuyền cung cấp toàn cầu.
Lợi ích cụ thể trước nhất là giảm giá thành đầu vào cho sản xuất. Việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ cho phép hàng hoá nhập khẩu có cơ hội thâm nhập sâu hơn vào thị trường trong nước. Người tiêu dùng sẽ được mua hàng với giá thấp hơn (do hạ thấp hàng rào thuế quan), mẫu mã đa dạng hơn; đồng thời các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng tham gia vào quá trình sản xuất sẽ có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn nguyên vật liệu đầu vào đa dạng hơn, ở mức chi phí và chất lượng hợp lý.
Thứ hai, để gia nhập WTO, Chính phủ phải từng bước thực hiện những điều chỉnh cần thiết đối với các quy định, luật lệ và chính sách kinh tế vĩ mô cho phù hợp luật chơi quốc tế phổ biến. Điều này tạo môi trường đầu tư và kinh doanh ngày càng thuận lợi và thông thoáng cho hoạt động của tất cả các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp Nhà nước.
Thứ ba, Việt Nam gia nhập WTO tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Nhà nước tiếp cận thị trường rộng lớn hơn với cùng một chế độ đối xử như đối với mọi thành viên khác của tổ chức, những cam kết giảm trợ cấp, mở rộng hạn ngạch xuất khẩu của các nước, nhất là nhóm nước phát triển có thể giúp Việt Nam giành được nhiều thị trường hơn, tăng xuất khẩu nhiều hơn các mặt hàng nông sản và dệt may.
Thứ tư, các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam sẽ có tiếng nói mạnh hơn, có quyền thương lượng và khiếu nại công bằng hơn với các cường quốc thương mại trong tranh chấp dựa trên những luật lệ chung.
Thứ năm, gia nhập WTO cũng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp Nhà nước sẽ có cơ hội tham gia vào sân chơi mới với các luật chơi chung toàn cầu. Điều đó một mặt gây áp lực to lớn khiến các doanh nghiệp Nhà nước phải điều chỉnh, thích nghi cho phù hợp, mặt khác chính là động lực để các doanh nghiệp này nhìn nhận lại mình, hiểu được thực chất điểm mạnh, điểm yếu để từ đó đổi mới, tổ chức lại theo hướng gọn nh‹, hiệu quả, tiến tới trở thành những tập đoàn lớn mạnh.
Tuy nhiên, việc Việt Nam gia nhập WTO cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam và khu vực doanh nghiệp Nhà nước nói riêng. Những quy tắc, luật lệ của WTO (về sở hữu trí tuệ, đầu tư, dịch vụ...) gây nhiều thiệt thòi cho các doanh nghiệp của nền kinh tế đang phát triển.
Thách thức cũng nảy sinh từ năng lực cạnh tranh yếu kém và hiệu quả kinh doanh thấp. Tình trạng tiêu hao nguyên liệu cao, chi phí quản lý lớn và chất lượng nguồn nhân lực thấp làm giá thành sản phẩm tăng, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước trên thị trường. Bao trùm lên là đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp còn chưa thích ứng với thị trường, tinh thần tự chủ chưa cao, vẫn còn ỷ lại Nhà nước.
Cải cách doanh nghiệp Nhà nước mà trọng tâm là cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình hội nhập, đặc biệt là gia nhập WTO. Tuy nhiên, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam diễn ra còn chậm và nhiều hạn chế đang đặt ra những thách thức lớn.
Một là, tốc độ cổ phần hóa diễn ra còn chậm, thời gian thực hiện cổ phần hoá còn quá dài. Theo báo cáo kết quả khảo sát của Dự án hỗ trợ kỹ thuật giám sát chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp Nhà nước tại 934 doanh nghiệp đã cổ phần hóa cho thấy thời gian cổ phần hóa một doanh nghiệp Nhà nước là 437 ngày.
Hai là, việc đa dạng hoá sở hữu trong cổ phần hóa còn hạn chế. Nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong vốn điều lệ ở nhiều doanh nghiệp không thuộc diện cần giữ cổ phần chi phối, phổ biến ở các tổng công ty Nhà nước thuộc các ngành xây dựng, giao thông.
Ba là, các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá chủ yếu mới ở quy mô nhỏ và vừa. Tổng số vốn Nhà nước của tất cả các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá chỉ bằng 8,2% tổng số vốn Nhà nước hiện có trong các doanh nghiệp Nhà nước.
Bốn là, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước vẫn chưa thay đổi được phương thức quản lý cũ của doanh nghiệp Nhà nước. Điều này thường xảy ra ở những doanh nghiệp mà Nhà nước còn giữ cổ phần quá lớn (trên 70%), Ban lãnh đạo của doanh nghiệp cổ phần đều từ doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang dẫn đến tình trạng “bình mới rượu cũ”.
Năm là, một số doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hóa hoạt động kém hiệu quả so với trước khi cổ phần hóa. Do hoạt động trong những ngành, lĩnh vực có điều kiện phát triển khó khăn, công nghệ lạc hậu, chi phí sản xuất cao.
Trước thực tế nhiều doanh nghiệp nước ta chỉ biết lầm lũi làm ăn mà chưa có sự chuẩn bị cho việc gia nhập “đấu trường thương mại”, chúng ta cần tiếp tục có chính sách, chương trình tuyên truyền, vận động giúp họ nhìn nhận ra những khó khăn thách thức sắp phải đối mặt”.
Gia nhập WTO cũng là để cải cách kinh tế
Ông Hà Huy Tuấn, Phó trưởng đoàn đàm phán Chính phủ
“Số tiền thu được từ thuế nhập khẩu của chúng ta chiếm khoảng 16-17% trong thu ngân sách. Với tiến độ đàm phán mở cửa thị trường hàng hoá để gia nhập WTO sẽ bao gồm cả giảm thuế nhập khẩu thì khả năng khoản thu cho ngân sách này khó còn được đảm bảo mức như hiện nay.” |
“Thách thức lớn nhất khi Việt Nam gia nhập WTO là sức cạnh tranh của nền kinh tế. Doanh nghiệp sẽ là khu vực đối đầu nhiều nhất với những thách thức này, tiếp đó là các cơ quan Chính phủ đang đứng ra đàm phán và thực hiện sau này.
Trong quá trình chuyển đổi cùng một lúc doanh nghiệp phải làm hai việc: vừa phải thực hiện chương trình cải cách, cổ phần hoá, đổi mới doanh nghiệp; vừa thực hiện các cam kết của WTO. Đối với doanh nghiệp, đây là hai khoản chi phí sẽ phải trả cho quá trình gia nhập WTO.
Còn trong lĩnh vực quản lý Nhà nước, thách thức đặt ra cho cả công tác ban hành luật pháp cũng như hoạch định chính sách. Trong WTO có 16 hiệp định, chúng ta phải ban hành luật pháp kịp thời theo đúng cam kết, có nội dung phải thực hiện ngay khi gia nhập có nội dung phải có thời kỳ quá độ. Nhưng băn khoăn lớn nhất hiện nay là hoạch định chính sách như thế nào tại thời điểm sau khi gia nhập WTO. Lúc đó, công cụ duy nhất là công cụ tài chính và nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động khác của nền kinh tế.
Chỉ lấy một ví dụ đơn giản về thuế nhập khẩu. Trước đây, chúng ta có thể sử dụng thuế như một phương tiện xử lý nhiều vấn đề: bảo hộ, định hướng tiêu dùng, khuyến khích sản xuất... tức là khoác cho nó rất nhiều nhiệm vụ trên vai.
Thực tế, số tiền thu được từ thuế nhập khẩu của chúng ta chiếm khoảng 16-17% trong thu ngân sách. Với tiến độ đàm phán mở cửa thị trường hàng hoá để gia nhập WTO sẽ bao gồm cả giảm thuế nhập khẩu thì khả năng khoản thu cho ngân sách này khó còn được đảm bảo mức như hiện nay.
Hơn nữa, khi vào WTO, chúng ta cũng không thể đưa ra mức thuế quá mức cam kết được. Như vậy, việc bảo hộ bị hạn chế và rõ ràng thu ngân sách cũng hạn chế theo.
Về khía cạnh chi thì sao? Trợ cấp đang là vấn đề rất phức tạp. Một trong những trở ngại mà vòng đàm phán Doha không đạt được kết quả như mong muốn cũng chính là vấn đề trợ cấp nông nghiệp.
Trong khi đó, Việt Nam lại là nước nông nghiệp tham gia WTO thì rõ ràng những phương tiện chúng ta có thể trợ cấp cho doanh nghiệp, đồng bào ở những vùng gặp khó khăn sẽ bị hạn chế nhiều. Về gián tiếp, do thu ngân sách giảm nên khoản tài chính dành cho hỗ trợ sẽ không còn.
Một điều vô lý là khi chúng ta gia nhập với cam kết trợ cấp giảm đi rất nhiều, thậm chí không còn nữa trong khi các đối tác của chúng ta vẫn còn khoản trợ cấp này. Đây là thách thức rất lớn.
Trong bối cảnh chúng ta bị hạn chế về thu ngân sách, hạn chế sử dụng công cụ tài chính đồng thời lại có những cam kết tương đối thông thoáng trong lĩnh vực tài chính thì vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước sẽ thực hiện như thế nào sau khi gia nhập WTO? Họ phải đưa ra chính sách gì để với những cam kết trong lĩnh vực tài chính Việt Nam vẫn kiểm soát và ổn định nền kinh tế? Quả thực khó khăn không ít!
Vậy câu hỏi đặt ra là tại sao Việt Nam lại phải gia nhập WTO? Tôi nghĩ rằng cần phải khẳng định việc gia nhập WTO không phải là mục tiêu mà gia nhập WTO là bước đi của chúng ta trong quá trình cải cách kinh tế. Cho nên cần xác định đó là công cụ, phương tiện, nội dung của quá trình cải cách kinh tế và có những cơ hội trong đó: cơ hội cho xuất khẩu, giải quyết tranh chấp, mở cửa thị trường của nước khác, thực hiện minh bạch hoá chính sách”.
Nỗ lực hết sức để gia nhập WTO
Ông Nguyễn Văn Long, Chánh văn phòng Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế
“Hiện nay, Việt Nam vẫn còn là nước đang phát triển ở trình độ thấp, thu nhập bình quân mới hơn 400 USD/năm.” |
“Việt Nam đang ở năm thứ 10 của tiến trình gia nhập WTO, đích đến đã rất gần nhưng trước mắt vẫn còn nhiều việc phải làm. Hiện nay, chúng ta đã tiến hành được 11 phiên đàm phán đa phương và tiến được bước dài trong đàm phán song phương, kết thúc đàm phán với 21/27 đối tác.
Trong 6 đối tác còn lại thì Hoa Kỳ, Australia và New Zealand vẫn còn nhiều vấn đề cần phải đàm phán. Hoa Kỳ là đối tác đặt ra những yêu cầu cao và rộng, liên quan đến cả nguyên tắc thương mại.
Tuy nhiên, phải ghi nhận hai bên đã có những tiến bộ đáng kể, đặc biệt tại phiên đàm phán diễn ra tháng 6/2005 nhân chuyến thăm của Thủ tướng Phan Văn Khải đến Hoa Kỳ. Tại chuyến thăm này, Tổng thống Bush đã ủng hộ mạnh mẽ việc gia nhập WTO của Việt Nam. Ở phiên 11 vừa qua, hai bên đã có 2 ngày đàm phán hết sức căng thẳng và nỗ lực trên tất cả các lĩnh vực liên quan đến đa phương cũng như mở cửa thị trường về hàng hoá và dịch vụ.
Chúng ta cũng đang tiếp tục đàm phán với Australia. Đây là một trong những nước xuất khẩu thịt bò rất lớn trên thế giới, hàng năm xuất khẩu khoảng 65% sản lượng của mình, riêng 2002-2003 xuất khẩu khoảng 2 tỉ USD và dự kiến 3,6 tỉ USD vào năm 2005. Như vậy, thịt bò sẽ là mặt hàng rất quan trọng Australia yêu cầu chúng ta mở cửa.
Còn New Zealand là đối tác hiện nay rất quan tâm đến mặt hàng nông sản. Sữa là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn của New Zealand và đạt khoảng 5 tỉ USD/năm. Trong quá trình đàm phán thực tế, các con số tổng kết cho thấy Việt Nam nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa một nửa là từ New Zealand. Vì vậy, không có gì khó hiểu khi đây là mặt hàng New Zealand đang rất mong muốn chúng ta mở cửa thị trường.
Tóm lại, tôi có 3 nhận xét cụ thể về quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam:
Một là chúng ta luôn khẳng định quyết tâm và bằng nỗ lực cao nhất để có thể sớm gia nhập WTO. Quyết tâm này không chỉ thể hiện bằng ý thức chính trị một cách chung chung mà bằng hành động cụ thể.
Một trong những chương trình đàm phán theo yêu cầu của WTO đối với nước gia nhập là phải có chương trình xây dựng pháp luật để điều chỉnh luật làm sao cho phù hợp với các hiệp định cũng như cam kết của nước đó khi gia nhập WTO.
Tại kỳ họp thứ 7 tháng 6/2005, Quốc hội đã thông qua 16 luật, vượt 5 luật so với kế hoạch và có thể khẳng định là trong năm 2005 Quốc hội sẽ thông qua tất cả các luật liên quan đến thực hiện Hiệp định và cam kết của Việt Nam trong WTO. Đây là điều thể hiện quyết tâm rất cao của Việt Nam trong việc gia nhập WTO.
Thứ hai là đến giai đoạn hiện nay, chúng ta đã tiến bước dài trong đàm phán đa phương và song phương. Chúng ta đã nhận được sự ủng hộ rất lớn của các đối tác. Điều này được thể hiện tại phiên 11 vừa qua. Tại phiên 11 có tất cả 16 đối tác đã có ý kiến và tất cả đều phát biểu ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO. Trong đó có đại sứ của Trung Quốc, Hàn Quốc, Än Độ, Thuỵ Sĩ bày tỏ mong muốn Việt Nam có thể gia nhập ngay tại Hội nghị Bộ trưởng tại Hồng Kông vào tháng 12/2005.
Thứ ba là để kết thúc đàm phán gia nhập WTO, chúng ta phải kết thúc đàm phán song phương với các đối tác còn lại. Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán này, các nước cần có nhìn nhận thực tế về thực trạng nền kinh tế của Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam vẫn còn là nước đang phát triển ở trình độ thấp, thu nhập bình quân mới hơn 400 USD/năm.
Như vậy, các nước cần có nhìn nhận linh hoạt, thực tế khi đưa ra các đòi hỏi Việt Nam trong các cam kết của mình, không nên yêu cầu những WTO cộng. Điều đó vượt quá khả năng và gây nhiều khó khăn cho Việt Nam”.
Chiến lược phát triển doanh nghiệp
Ông Đoàn Duy Khương, Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
“Khi vào WTO, thuế quan sẽ giảm dẫn đến giá thành hàng hoá của các nước cũng giảm, như vậy, doanh nghiệp cần xây dựng cho mình chiến lược về giá.” |
“Một câu hỏi đặt ra là các doanh nghiệp làm thế nào để có thể tận dụng hiệu quả các cơ hội và vượt qua những thách thức mà hội nhập kinh tế mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Có một số vấn đề giúp các doanh nghiệp Việt Nam tăng sức cạnh tranh và đảm bảo tham gia hiệu quả.Trước tiên là từ phía doanh nghiệp, họ cần phải xây dựng chiến lược kinh doanh hết sức chặt chẽ và hiệu quả. Chiến lược suy cho cùng vẫn là làm thế nào để bán hàng hiệu quả.
Yếu tố đầu tiên chính là giá. Khi vào WTO, thuế quan sẽ giảm dẫn đến giá thành hàng hoá của các nước cũng giảm, như vậy, doanh nghiệp cần xây dựng cho mình chiến lược về giá.
Thứ hai là sản phẩm, thương hiệu, chất lượng, chủng loại..., mà nếu điểm lại thì chỉ có một vài doanh nghiệp Việt Nam có khả năng cạnh tranh về mặt này. Các hàng rào kỹ thuật về ch t lượng sản phẩm, môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, trách nhiệm xã hội hết sức chặt chẽ. Nếu các doanh nghiệp không chú ý đến chất lượng đó thì khó có thể xuất khẩu vào các thị trường khó tính.
Thứ ba là hệ thống phân phối, tiêu thụ sản phẩm. Các nhà phân tích cho rằng việc phân phối tiêu thụ các loại hàng hoá được coi là thế mạnh của Việt Nam (dệt may, da giày) vẫn bị các công ty đa quốc gia và người nước ngoài nắm giữ. Đây cũng là điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ tư là về tiếp thị, quảng cáo, dịch vụ. Chúng ta đang chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường thì đây là khâu cần chú ý.
Vấn đề cuối cùng là liên kết đối tác, bạn hàng. Đây là chiến lược hết sức quan trọng. Bởi vì thực chất của hội nhập kinh tế quốc tế và nội dung chính của nó chính là tìm đối tác chiến lược trong kinh doanh. Hay nói cách khác, các công ty đa quốc gia hiện nay thay vì sản xuất trong nước, họ luôn tìm đối tác chiến lược để giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh và chiếm thị phần ở các nước khác.
Những chiến lược kể trên phải dựa vào yếu tố phân tích lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong mối tương quan với các doanh nghiệp, các đối thủ cùng ngành trong và ngoài nước; và phải dựa vào dự báo, nghiên cứu tình hình thị trường trong và ngoài khu vực. Nguyên tắc chung là giữ vững thị phần trong nước và từng bước phát triển thị trường bên ngoài.
Tuy nhiên, trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh và tham gia hiệu quả của các doanh nghiệp thì cũng cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Cụ thể: tích cực đàm phán nhằm mở rộng thêm thị trường xuất khẩu và giải quyết các vấn đề phát sinh; ổn định môi trường kinh doanh vĩ mô, hoàn thiện môi trường pháp lý kinh doanh; định hướng phát triển ngành, vùng, quốc gia dựa trên thế mạnh của mình; phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng”.
Đảm bảo những cam kết cải cách
Ông Fred Burke, Chủ tịch Uỷ ban pháp lý của AMCHAM
“Quá trình đạt được đồng thuận cũng giống như việc “con chuột có thể gầm to”. Nó khiến cho bất kỳ một nước nào dù là một nước rất nhỏ cũng có thể ngăn cản Việt Nam gia nhập WTO.” |
“Việt Nam trở thành thành viên của WTO, đó là điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể nhận được sự bảo vệ trong các tranh chấp thương mại với các nền kinh tế lớn; chấm dứt bị đối xử “kinh tế phi thị trường” trong các vụ kiện phá giá. Đây cũng là điều kiện cần cho Việt Nam được hưởng GSP tại Hoa Kỳ. Việt Nam cũng sẽ có tiếng nói trong việc các nước khác sau này gia nhập WTO.
Hơn nữa, thương mại gia tăng khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ kéo theo đầu tư cũng gia tăng. Điểm chính nữa khi Việt Nam gia nhập WTO là nền kinh tế sẽ phát triển và như vậy sẽ gia tăng cơ hội đối với Hoa Kỳ.
Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực, tiến bộ trong quá trình đàm phán. Năm 2005, Việt Nam đã kết thúc đàm phán song phương với nhiều nước. Hiện Việt Nam vẫn còn đàm phán với Hoa Kỳ nhưng chúng ta cũng không nên đánh giá thấp New Zealand hay Mexico. Nếu xem xét các yêu cầu thì Việt Nam không thể vào WTO vào cuối năm nay được. Thời gian dài hay ngắn tuỳ thuộc các bên nhất trí với Việt Nam như thế nào.
Tôi xin nói thẳng thắn một số vấn đề cản trở việc Việt Nam gia nhập WTO. Quá trình đạt được đồng thuận cũng giống như việc “con chuột có thể gầm to”. Nó khiến cho bất kỳ một nước nào dù là một nước rất nhỏ cũng có thể ngăn cản Việt Nam gia nhập WTO.
Vấn đề quan trọng nữa là tiếp cận thị trường đối với quyền kinh doanh, xuất nhập khẩu, phân phối. Đây là những vấn đề rất quan trọng đối với các công ty của Hoa Kỳ. Họ thấy ở Việt Nam gặp nhiều cản trở như: trì hoãn việc cho phép đầu tư của các công ty Hoa Kỳ chiếm tới 49% số vốn; trì hoãn việc cấp một giấy phép bán lẻ hay mở một công ty cổ phần về đầu tư; trì hoãn việc cấp phép thành lập liên doanh về dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng; yêu cầu đối tác làm về du lịch, xây dựng... phải được cấp phép (không phải là liên doanh)...
Vấn đề quyền kinh doanh Nhà nước cũng đang tạo ra nhiều yếu tố không thuận lợi. Chẳng hạn như trong Dự thảo Luật Doanh nghiệp mới có các hình thức hạn chế kinh doanh trong khi BTA cho phép có nhiều lựa chọn hơn.
Vấn đề tiếp theo là năng lực và quyết tâm thực hiện các cam kết. Việt Nam vẫn còn nhiều điểm tồn tại. Thêm vào đó, những trì hoãn của Việt Nam trong thực thi BTA đã làm ảnh hưởng tới lòng tin về năng lực. Người ta muốn đảm bảo rằng luật pháp sẽ phải có quy định rõ ràng như: lao động có thể chuyển đổi không, đất đai, hỗ trợ của Chính phủ như thế nào, đồng tiền có chuyển đổi được hay không, kiểm soát của Nhà nước với đầu tư.
Trên thực tế, đất đai bây giờ cũng đã có luật; ngoại hối cũng có nghị định mới. Nhưng trong dự thảo Luật Đầu tư chung vẫn có kiểm soát của Nhà nước đối với đầu tư của khu vực tư nhân. Như vậy là có thể vô hình chung chống lại việc Việt Nam có nền kinh tế thị trường.”
(Theo Thời báo Kinh tế VN)