(VietNamNet) - Theo Vụ châu Mỹ - Bộ Thương mại, trong thời gian qua, bốn mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ là dệt may, thủy sản, đồ gỗ nội thất và giày dép đã có nhiều chuyển biến theo những hướng khác nhau.
Năm 2004, trong số các mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ, dệt may đứng thứ nhất với tổng kim ngạch 2,676 tỷ USD; thủy sản đứng thứ 2 với 565 triệu USD; tiếp sau là giày dép 474 triệu USD và đỗ gỗ 378 triệu USD.
Việt Nam hiện đứng thứ 38 trong số các nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ và thứ 67 trong số các nước nhập khẩu từ Hoa Kỳ. |
Đơn cử, so với tháng trước, xuất khẩu hàng dệt may tháng 4 vừa qua đã giảm mạnh. Giày dép duy trì khá ổn định với kim ngạch không đổi 52 triệu USD. Đặc biệt dầu thô giảm mạnh (tới 89,6%). Tiếp tục với xu hướng từ đầu năm 2005, thủy sản đã giảm thêm 12,5%, rơi xuống vị trí thứ 4 với kim ngạch 35 triệu USD.
Trong tình hình các nhóm hàng khác đều giữ nguyên hoặc giảm sút so với trước, đồ gỗ lại có tăng trưởng xuất khẩu. Đồ gỗ nội thất tiếp tục phát huy thế mạnh, tăng khá so với các kỳ trước và đã vươn lên vị trí thứ 2 trong bảng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
|
Đồ gỗ nội thất đang dần thay vị trí của thủy sản sang Hoa Kỳ. |
Thủy sản, sụt giảm được báo trước
Kết quả giảm sút xuất khẩu thủy sản năm nay so với năm trước hầu như đã được khẳng định. Xuất khẩu thủy sản tháng 4/2005 tiếp tục giảm 12,5% so với tháng trước, chỉ đạt kim ngạch 35 triệu USD. Trong đó, thủy sản tươi sống đạt 29 triệu USD (không đổi so với tháng trước) và thủy sản đã qua chế biến đạt 6 triệu USD (giảm 4 triệu USD so với tháng trước).
Tuy thủy sản Việt Nam vẫn đứng thứ 7 trong số các nước xuất khẩu thủy sản vào Hoa Kỳ (không đổi so với tháng 3/2005) nhưng nếu so với thời điểm đầu năm 2005 thì kim ngạch chỉ còn non nửa. (Tháng 1/2005, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 72 triệu, chiếm 7,2% thị trường và đứng thứ 4).
Quy chế của hải quan Hoa Kỳ bắt các doanh nghiệp nhập khẩu tôm phải đóng ký quỹ (“bond”) là nguyên nhân chính của tình trạng này. Bộ Thương mại cùng các Bộ ngành liên quan đã và đang tích cực nghiên cứu, xem xét tìm biện pháp giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn.
Năm 2004, thủy sản xuất sang Hoa Kỳ có tổng kim ngạch 565 triệu USD, là mặt hàng xuất khẩu lớn thứ 2 sau dệt may. Tuy nhiên, sau 4 tháng từ đầu năm đến nay, xuất khẩu thủy sản với tổng kim ngạch 197 triệu USD chỉ tương đương và cùng đứng chung ở vị trí thứ 3 với đồ gỗ nội thất.
Đồ gỗ vào Top 10
Xuất khẩu đồ gỗ nội thất trong tháng tăng trưởng tốt, tăng 30% so với tháng trước và 126,1% so với cùng kỳ năm trước. Lần đầu tiên từ trước tới nay, đồ gỗ đã vươn lên vị trí thứ 2 trong số các sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam sang thị trường này. Xuất khẩu đồ gỗ tháng 4/2005 đạt 52 triệu USD, đứng ngang (thậm chí nhỉnh hơn chút ít) so với xuất khẩu giày dép.
Với kết quả đó, Việt Nam đã quay trở lại tốp 10 nước xuất khẩu đồ gỗ nội thất lớn nhất vào Hoa Kỳ sau khi bất ngờ tụt xuống vị trí thứ 11 vào tháng 3. Nếu như tháng 3/2005, Việt Nam chỉ chiếm 1,1% thị trường và đứng thứ 11, thì sang tháng 4, thị phần của Việt Nam là 1,3% và đứng thứ 10.
Vụ châu Mỹ - Bộ Thương mại nhận định rằng, với thực trạng mặt hàng thủy sản xuất khẩu đang vấp phải những khó khăn không dễ dàng khắc phục, đồ gỗ nội thất sẽ dần thay vị trí của thủy sản trong các mặt hàng chiến lược của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong năm 2005.
Một số nhóm hàng xuất khẩu chính sang Hoa Kỳ trong tháng 4, xếp theo thứ tự giảm dần của kim ngạch:
|
Hàng hóa |
Tháng 4/2005 (triệu USD) |
tăng-giảm so với tháng 4/2004 |
triệu USD |
% |
1 |
Dệt may |
184 |
-14 |
-7,1% |
2 |
Đồ gỗ |
52 |
29 |
126,1% |
2 |
Giày dép |
52 |
19 |
57,6% |
4 |
Thủy sản |
35 |
5 |
16,7% |
5 |
Cà phê |
13 |
2 |
18,2% |
6 |
Dầu khí |
10 |
-15 |
-60,0% |
7 |
Máy móc thiết bị cơ khí |
9 |
5 |
125,0% |
8 |
Hạt điều |
8 |
1 |
14,3% |
9 |
Máy móc thiết bị điện |
5 |
2 |
66,7% |
10 |
Mũ, nón |
5 |
1 |
25,0% |
11 |
Đồ gốm |
3 |
0 |
0,0% |
12 |
Cao su |
1 |
0 |
0,0% |
12 |
Đồ da |
1 |
0 |
0,0% |
|
Tổng |
378 |
35 |
10,2% |
|