Mikhail Solokhov
(VietNamNet) - Sông Đông êm đềm tự nó đã hoàn toàn xứng đáng với giải thưởng này. Một tác phẩm xuất sắc, dù được trao giải hơi muộn, nhưng không quá muộn để đưa thêm vào danh sách những người đoạt giải Nobel một trong những nhà văn kiệt xuất nhất thời đại chúng ta.
Mikhail Solokhov (24/5/1905 - 2/2/1984)
Giải Nobel Văn chương 1965
* Nhà văn Nga
* Nơi sinh: thôn Crujilin, trấn Viesenxcaia (Nga)
* Nơi mất: Viesenxcaia (Nga)
M. Solokhov là một trong những nhà văn lớn nhất của nền văn học Xô Viết, với những tác phẩm đặc sắc mang tính sử thi về đất và người Cazac vùng sông Đông quả cảm. Tiểu thuyết 4 tập Sông Đông êm đềm và truyện ngắn Số phận con người là những kiệt tác kinh điển của văn chương Nga và thế giới thế kỉ XX.
Mikhail Solokhov
Mikhail Alecxandrovich Solokhov sinh tại vùng sông Đông ở miền Nam nước Nga trong một gia đình nông dân, mẹ là người Ucraina, vốn mù chữ nhưng đã tự học để viết thư khi con trai đi học ở tỉnh khác. Từ tuổi thiếu niên M. Solokhov đã chứng kiến và trực tiếp tham gia (năm 1918 ông làm việc trong Đội vũ trang trưng thu lương thực) vào những sự kiện bi thảm của cuộc chiến giữa Hồng quân và Bạch vệ, đặc biệt là cuộc nổi dậy của những người Cazac vùng Thượng Sông Đông đòi quyền tự trị.
Sau nội chiến M. Solokhov tới Moxcva, vừa làm công nhân bốc vác, nhân viên kế toán vừa tham gia nhóm văn học Cận vệ trẻ (Молодая Гвардия) và đăng tiểu phẩm văn học đầu tiên trên tờ báo Sự thật Thanh niên (Комсомольская Правда). Năm 1926 ông xuất bản cuốn sách đầu tiên Truyện Sông Đông - tập truyện ngắn viết về cuộc nội chiến đẫm máu ở quê ông. Khác với các nhà văn cùng thời, M. Solokhov không lãng mạn hóa cuộc đấu tranh, không ca ngợi "nơớc Nga được rửa bằng máu", mà đưa vào văn học những bức tranh hiện thực tàn nhẫn, trần trụi của cuộc sống.
Cũng từ đó M. Solokhov trở về sống ở làng quê cho tới tận cuối đời và bắt đầu sáng tác bộ tiểu thuyết đồ sộ Sông Đông êm đềm (1926-1940; tập 1 và 2 in năm 1928-1929, tập 3 in năm 1932-1933, tập 4 in năm 1937-1940). Đây là một trong những tác phẩm lớn nhất của nền văn học Xô Viết, một thiên sử thi về Thế chiến I, cách mạng, nội chiến diễn ra trên mảnh đất Nga. Nhơng thành công chính của M. Solokhov không phải ở sự mô tả hoành tráng các sự kiện lịch sử, mà ở những số phận con người được khắc họa: Sông Đông êm đềm chứng minh rằng cá nhân chưa biến mất khỏi văn học, số phận nhân vật chính Grigori Melekhov phản ánh bi kịch toàn dân trong bước ngoặt dữ dội của lịch sử.
Đầu những năm 1930, trong bối cảnh công cuộc tập thể hóa nông thôn, M. Solokhov tạm ngừng Sông Đông êm đềm để viết bộ tiểu thuyết lớn thứ hai của ông Đất vỡ hoang, tập 1 được đăng tải từng phần từ năm 1932, còn tập 2 phải gần 30 năm sau mới hoàn thành. Trong Thế chiến II, M. Solokhov là phóng viên mặt trận của báo Sự thật (Правда). Tháng 6 năm 1942, một năm sau khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, M. Solokhov viết Khoa học căm thù kêu gọi "mang căm thù trên đầu lưỡi lê" giết giặc.
Năm 1943 ông đăng tải trên báo Sự thật cuốn tiểu thuyết thứ ba Họ đã chiến đấu vì Tổ Quốc nói về cuộc sống khắc nghiệt của những người lính trong chiến hào, nhưng tác phẩm đến cuối đời Sholokhov vẫn chưa được hoàn thành. Trong số báo Sự thật cuối cùng của năm 1956 xuất hiện truyện ngắn kiệt tác của M. Solokhov Số phận con người nói về số phận và chủ nghĩa anh hùng của người lính Nga bình dị.
Năm 1955, cả Liên Xô kỉ niệm 50 năm ngày sinh M. Solokhov, ông được nhận Huân chương Lênin đầu tiên (về sau ông còn được nhận hai lần nữa); năm 1956 ông phát biểu tại Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX; năm 1959 ông tháp tùng Tổng Bí thư Khrusov trong các chuyến đi nơớc ngoài ở Châu Âu và Mỹ; năm 1961 ông trở thành ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô; ông là viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, Anh hùng Lao động Liên Xô. Năm 60 tuổi, M. Solokhov là nhà văn Nga thứ ba nhận giải Nobel Văn học vì những tác phẩm mang tính sử thi về vùng Cazac sông Đông. Từ cuối những năm 1950 ông viết rất ít.
M. Solokhov được coi là niềm tự hào, là một trong những nhà văn lớn nhất của văn học Xô Viết, nhưng cuộc đời ông gặp không ít gian nan. Cả Sông Đông êm đềm lẫn Đất vỡ hoang ngay từ khi ra đời đã bị phê phán nặng nề từ phía giới phê bình chính thống vì "thiếu lập trường vô sản, ca ngợi Bạch vệ, culắc". Trong những năm 1930 bản thân ông suýt bị bắt và buộc tội phản động. M. Solokhov còn bị lên án đạo văn với tiểu thuyết Sông Đông êm đềm - nghi án kéo dài hơn nửa thế kỉ, đầu tiên do những nhà văn vô sản khởi xướng, đến những năm 1970 được một số nhà nghiên cứu khác tiếp tục (ý kiến của họ được một nhà văn Nga đoạt giải Nobel khác là Solzhenitsyn ủng hộ). Tuy nhiên cho đến nay chưa ai tìm ra chứng cứ thuyết phục về việc đó.
Các tác phẩm chính của M. Solokhov đã được dựng phim. Hầu hết tiểu thuyết, truyện ngắn của ông đã được dịch ra tiếng Việt.
* Tác phẩm:
- Truyện sông Đông (Донские рассказы, 1926), tập truyện ngắn [Tales of the Don].
- Thảo nguyên xanh (Лазоревая степь, 1926), tập truyện ngắn.
- Sông Đông êm đềm (Тихий Дон, 1928-1940), tiểu thuyết [And quiet flows the Don].
- Đất vỡ hoang (Поднятая целина, 1932-1960), tiểu thuyết [Virgin soil upturned].
- Khoa học căm thù (Наука ненависти, 1942), truyện vừa [The science of hatred].
- Họ đã chiến đấu vì Tổ Quốc (Они сражались за Родину, 1943-1969), tiểu thuyết [They fought for their country].
- Số phận con người (Судьба человека, 1957), truyện ngắn [The fate of a man].
* Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt:
- Căm thù, Học Phi dịch, Nhà in Chi Tương, 1946.
- Mikhain Sôlôkhốp tuyển tập, Nguyễn Duy Bình - Trần Vĩnh Phúc - Hà Ngọc - Nguyễn Thị Thìn dịch, NXB Cầu Vồng - Moxcva, 1987 (in theo bản dịch của NXB Văn Học).
- Sông Đông êm đềm (tiểu thuyết), Nguyễn Thụy Ứng dịch, NXB Văn Học, 1959-1960-1961; NXB Tác Phẩm Mới 1983 (tập 1-5), 1984 (tập 6-8); NXB Hội Nhà Văn - NXB Mũi Cà Mau, 1993 (in lần 3) - 2000 (in lần 4); NXB Hội Nhà Văn, 2004 (4 tập).
- Họ đã chiến đấu vì Tổ quốc, Nguyễn Thụy Ứng dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1963.
- Họ chiến đấu vì tổ quốc (những chương tiểu thuyết), Nguyễn Duy Bình dịch, Anh Trúc giới thiệu, NXB Văn Học, 1983.
- Đất vỡ hoang, Trúc Thiên - Văn Hiến - Hoàng Trinh dịch, NXB Văn Học, 1959 - 1960 - 1961.
- Vỡ đất hoang, Võ Lang dịch, Sống Mới, 1967.
- Đất vỡ hoang, Vũ Trấn Thủ dịch, NXB Cầu Vồng - Moxcva, 1985.
- Truyện sông Đông, Hà Ngọc, Trần Vĩnh Phúc, Nguyễn Duy Bình, Nguyễn Thị Thìn dịch, NXB Văn Học, 1984.
- Số phận con người, Nguyễn Duy Bình dịch, NXB Thế Giới - Trung tâm Văn Hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Song ngữ Nga - Việt, 2004.
- Số phận con người (tập truyện), Nguyễn Duy Bình - Hà Ngọc - Trần Vĩnh Phúc dịch, NXB Kim Đồng, 2004.
- Số phận con người, Mạnh Cầm dịch, NXB Văn Học, 1959-1960-1961; và in trong cuốn Đêm duy nhất - truyện ngắn Nga hiện đại, NXB Hội Nhà Văn, 2003.
- Cái bớt, Trần Vĩnh Phúc dịch, in trong Đêm duy nhất - truyện ngắn Nga hiện đại, NXB Hội Nhà Văn, 2003.
- Iliukha, Trái tim Aliôsa, Thằng con nhà hư đốn, Trần Vĩnh Phúc dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004.
- Bóng tối đêm dài, Trần Văn Điền tuyển dịch và giới thiệu.
© Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây
Tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển
Như tất cả các vị đã biết, giải thưởng Nobel văn học năm nay được trao cho nhà văn người Nga, Mikhail Sholokhov, sinh năm 1905 và hiện đã ở tuổi sáu mươi mốt. Thời thơ ấu, Sholokhov sống ở vùng nông thôn Côdắc sông Đông; và sự gắn bó mật thiết của ông với vùng đất này xuất phát từ sự cảm thông sâu sắc của ông với cá tính mạnh mẽ của người dân xứ sở ấy cũng như sự hoang dã của thiên nhiên nơi đó. Ông đã chứng kiến quê hương mình trải qua những giai đoạn của cuộc cách mạng và nội chiến Nga.
Sau một thời gian thử lao động chân tay ở Matxcơva, ông nhanh chóng tập trung vào viết lách và sáng tác một loạt tác phẩm ngắn mô tả các trận đánh dọc sông Đông, một thể loại mà về sau đã giúp ông có được tiếng tăm. Đây quả là một minh chứng hùng hồn về sự trưởng thành mau chóng của thế hệ thời chiến: khi bắt tay viết cuốn sử thi vĩ đại Sông Đông êm đềm, Sholokhov chỉ mới ở độ tuổi 21. Cái tựa đề giản dị Sông Đông êm đềm mang một giọng điệu mỉa mai không thể phủ nhận khi nó được dùng để phản ánh sự bạo lực đến tột cùng trong kiệt tác của Sholokhov.
Sholokhov mất 14 năm mới hoàn thành công trình của mình, một công trình đòi hỏi cao độ về mọi phương diện, bao quát cả một thời kỳ từ Thế chiến thứ nhất, Cách mạng và Nội chiến, với đề tài chính cuộc dấy loạn bi thảm của người Côdắc. Bốn phần của cuốn sử thi diễn ra ở những giai đoạn khá dài giữa những năm 1928 và 1940. Đã từ lâu, đây là mối quan ngại của các nhà phê bình văn học Xô viết, những người vốn bị ảnh hưởng quá lớn về chính trị khiến họ không thể nồng nhiệt chấp nhận việc Sholokhov cống hiến tâm lực một cách hoàn toàn tự nhiên vào đề tài ông đã chọn: về cuộc khởi nghĩa Cô dắc chống lại chính quyền trung ương mới; họ cũng không thể dễ dàng chấp nhận những nỗ lực của ông nhằm biện giải và bênh vực một cách khách quan cho tinh thần độc lập tự chủ bất khuất [của người Cô dắc], cái đã thúc đẩy những con người này kháng cự mọi ý đồ [của kẻ khác] nhằm khuất phục họ.
Xét những khía cạnh gây tranh cãi về đề tài của ông, không còn nghi ngờ gì nữa, khi bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết này, Sholokhov đã đi một bước đi táo bạo, một bước đi mà vào thời điểm đó trong sự nghiệp của ông đồng nghĩa với việc giải quyết mâu thuẫn với chính lương tâm mình.
Và tiểu thuyết Sông Đông êm đềm đã quá nổi tiếng đối với độc giả Thụy Điển đến mức bất cứ lời giới thiệu nào cũng trở thành thừa. Ngồn ngộn tính hiện thực, cuốn sách đã mô tả tính cách độc đáo của người Côdắc, sự phối hợp truyền thống giữa kỵ binh và nông dân, với những bản tính dường như mâu thuẫn nhưng lại hoà quyện với nhau hết sức hài hoà để tạo nên một thể thống nhất vững chắc. Không hề có sự tán dương. Chất man rợ, lỗ mãng trong tính khí Côdắc được phô bày trần trụi, không gì được giấu giếm hay che đậy, nhưng đồng thời người đọc lại nhận thấy một dòng chảy ngầm của niềm tôn kính tất cả những gì thuộc về con người. Tuy là người cộng sản trung kiên, Sholokhov hoàn toàn không đưa những nhận xét mang tính ý thức hệ vào tác phẩm của mình; đổi lại độc giả được chứng kiến những cuộc chiến đẫm máu được tường thuật bằng lối tự sự mãnh liệt đầy nhiệt huyết của ông.
Grigôri, đứa con của người Côdắc, bỏ Hồng quân để theo bọn Bạch vệ và buộc phải tiếp tục cuộc chiến cho đến kết cục vô vọng vừa là một anh hùng vừa là một nạn nhân. Khái niệm về danh dự mà anh được thừa kế [từ cha ông] đã bị đem ra thử thách một cách tột cùng khắc nghiệt, và anh đã bị đánh bại bởi tính tất yếu của lịch sử, yếu tố đóng vai trò giống như sự trừng phạt của Trời đất mang tính kinh điển. Nhưng chúng ta cảm thông với anh cũng như với hai người đàn bà không thể nào quên, Natalia, vợ anh và Aksinia, người tình, cả hai đều gặp tai họa vì muốn bảo vệ anh. Khi anh trở về quê cũ vào cuối truyện, sau khi đào huyệt chôn người tình Aksinia trên thảo nguyên bằng thanh kiếm của mình, tóc anh đã nhuốm bạc và anh đã mất tất cả ngoại trừ đứa con trai.
Qua toàn bộ chuỗi dài các nhân vật đó - kẻ được quan sát trong những mối quan hệ cá nhân, người tích cực tham dự vào cuộc chiến như một quân nhân - là quang cảnh hùng vĩ của xứ Ukraina, những thảo nguyên dầu dãi bốn mùa, những làng mạc với những cánh đồng thơm ngọt và những bầy ngựa đang ăn cỏ, những bãi cỏ xanh cuồn cuộn lên trong gió, hai bờ sông Đông cùng với tiếng rì rầm không dứt của dòng sông. Sholokhov không bao giờ chán mô tả những thảo nguyên Nga. Đôi khi ông tự cho phép mình phá vỡ giọng tự sự ngay giữa chừng câu chuyện để thốt lên những lời thống thiết:
“Ôi i những thảo nguyên yêu dấu của ta dưới bầu trời gần gụi của miền quê sông Đông! Những hẻm núi uốn khúc quanh những cánh đồng với những bức tường đất đỏ, biển cỏ bao la cuộn sóng, trên đó chỉ hằn lên những vết móng ngựa giống như vô vàn những tổ chim, kế bên là lăng mộ những người Tácta, những người đang lặng lẽ canh chừng vinh quang chiến thắng đã bị chôn vùi của người Côdắc... Ta kính cẩn nghiêng mình trước Người, và, như một người con, xin được hôn lên mặt đất tươi nguyên của Người, thảo nguyên tinh khiết đẫm máu đào của người Côdắc sông Đông.”
Có thể nói Sholokhov sử dụng một kỹ thuật tả thực điêu luyện, không có gì mang tính đột phá, một kỹ thuật dường như quá ngây thơ và giản đơn nếu ta đem đặt nó bên cạnh kỹ thuật đang được dùng rất phổ biến trong nghệ thuật viết tiểu thuyết hiện đại. Nhưng đề tài của ông chắc chắn không thể diễn đạt được theo bất cứ một phương thức nào khác, và chính dòng chảy mãnh liệt, bền bỉ, mang tính sử thi đã làm Sông Đông êm đềm trở thành một tiểu thuyết trường thiên thực thụ cả về nghĩa đen và nghĩa bóng.
Tác phẩm mới nhất của Sholokhov, Vỡ đất hoang (Podnyataya tselina, 1932 và 1959), một cuốn tiểu thuyết mô tả quá trình cưỡng bức hợp tác xã hoá và bắt đầu áp dụng hình thức hợp tác xã (kolkhoz) đã có một sức sống mãnh liệt không bao giờ phai nhạt và cho ta thấy niềm ưu thích của Sholokhov đối với những nhân vật hết mực hài hước nhưng đồng thời lại được [nhà văn] quan sát bằng con mắt cảm thông. Nhưng, dĩ nhiên, Sông Đông êm đềm tự nó đã hoàn toàn xứng đáng với giải thưởng này. Một tác phẩm xuất sắc, dù được trao giải hơi muộn, nhưng không quá muộn để đưa thêm vào danh sách những người đạt giải Nobel một trong những nhà văn kiệt xuất nhất của thời đại chúng ta.
Để chứng minh cho lựa chọn đúng đắn của mình, Viện Hàn lâm Thụy Điển đã nói đến "sức mạnh nghệ thuật và lòng chính trực nghệ sĩ, những phẩm chất mà trong trường thi Sông Đông, Sholokhov đã dùng để mô tả một giai đoạn lịch sử trong cuộc sống của dân tộc Nga.”
Thưa Ngài! Giải thưởng cao quý này là biểu tượng của công bằng và lòng biết ơn đối với Ngài, về đóng góp quan trọng của Ngài cho nền văn học Nga hiện đại, một đóng góp được thừa nhận rộng rãi không chỉ ở nước Nga mà cả toàn thế giới. Tôi xin gửi tới Ngài lời chúc mừng của Viện hàn lâm Thụy Điển, và kính mời Ngài nhận giải thưởng Nobel văn học năm nay từ tay Hoàng thượng.
-
Tân Đôn dịch, Trần Tiễn Cao Đăng hiệu đính
© Culture Globe
Diễn từ
Thưa Đức Vua!
Thưa các vị thành viên Hoàng gia!
Thưa các quý bà và quý ông!
Tại buổi lễ trọng thể này tôi cho mình có một trách nhiệm dễ chịu là thêm lần nữa bày tỏ lòng biết ơn đối với Viện Hàn lâm Thụy Điển đã trao tặng tôi Giải Nobel.
Tôi cũng đã có dịp bày tỏ trước công chúng rằng điều này gợi lên trong tôi niềm thỏa mãn không chỉ bởi đó là sự công nhận quốc tế đối với những thành tựu nghề nghiệp và những đặc điểm của riêng tôi như một nhà văn. Tôi tự hào bởi giải thưởng này được trao tặng cho một nhà văn Nga, một nhà văn Xô Viết. ở đây tôi đại diện cho đội ngũ đông đảo các nhà văn của Tổ quốc tôi.
Tôi cũng đã bày tỏ niềm thỏa mãn bởi giải thưởng này còn gián tiếp thêm một lần khẳng định thể loại tiểu thuyết. Trong thời gian gần đây chúng ta thường phải nghe và đọc những ý kiến, thú thực mà nói khiến tôi rất ngạc nhiên, tuyên bố rằng hình thức tiểu thuyết đã trở nên già cũ, không còn đáp ứng những yêu cầu của hiện đại. Trong lúc đó, chính tiểu thuyết tạo ra khả năng nắm bắt thế giới hiện thực một cách trọn vẹn nhất và thể hiện thái độ của mình đối với những vấn đề nóng bỏng của nó.
Tiểu thuyết, có thể nói, hướng đến sự nhận thức sâu sắc cuộc sống rộng lớn bao quanh ta hơn là đến những toan tính phô bày cái tôi nhỏ bé của mình như một trung tâm của vũ trụ. Thể loại tiểu thuyết, với đặc tính của mình, là căn cứ địa rộng lớn nhất của nhà nghệ sĩ hiện thực.
Nhiều trường phái thời thượng trong nghệ thuật từ bỏ chủ nghĩa hiện thực vì cho rằng nó đã sống hết thời của mình. Không sợ bị quở trách là bảo thủ, tôi tuyên bố rằng tôi đứng về phía những quan điểm đối lập, tôi ủng hộ nhiệt thành nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa.
Hiện nay người ta hay nói về cái gọi là chủ nghĩa tiên phong trong văn học - hàm chỉ những thử nghiệm mới mẻ nhất chủ yếu là trong lĩnh vực hình thức. Theo quan niệm của tôi, người tiên phong chân chính là người nghệ sĩ trong các tác phẩm của mình khám phá ra nội dung mới xác định những đặc điểm của cuộc sống thời đại chúng ta.
Cả chủ nghĩa hiện thực nói chung, lẫn tiểu thuyết hiện thực đều dựa trên những kinh nghiệm nghệ thuật của các nghệ sĩ vĩ đại của quá khứ. Nhưng trong sự phát triển của mình, nó đã tích lũy thêm những đặc điểm mới một cách căn bản, hiện đại một cách sâu sắc.
Tôi đang nói về chủ nghĩa hiện thực mang trong mình ý tưởng làm mới cuộc sống, cải tạo cuộc sống vì lợi ích của con người. Hiển nhiên, tôi đang nói về chủ nghĩa hiện thực mà chúng tôi gọi là hiện thực xã hội chủ nghĩa. Điểm đặc trưng của nó ở chỗ, nó thể hiện một thế giới quan không chấp nhận cả thái độ quan sát bàng quan lẫn thái độ trốn chạy hiện thực, mà nó kêu gọi đấu tranh vì sự tiến bộ của nhân loại, tạo ra khả năng đạt đến những mục tiêu gần gũi với hàng triệu con người, soi sáng con đường đấu tranh của họ.
Nhân loại không phân chia ra thành vô số những cá thể, cá nhân trôi nổi trong trạng thái không trọng lượng như những nhà du hành vũ trụ nằm ngoài giới hạn sức hút trái đất. Chúng ta sống trên mặt đất, chúng ta tuân theo những quy luật của trái đất, và, như trong kinh Phúc Âm nói, ngày nào của chúng ta cũng có đủ những vấn đề thường nhật của nó, những lo toan và đòi hỏi của nó, những hi vọng của nó vào một ngày mai tốt đẹp hơn. Đại đa số dân chúng trên trái đất bị thôi thúc bởi một động cơ duy nhất, sống bằng những quyền lợi chung, những mối quan tâm hòa kết với nhau hơn là chia rẽ.
Đó là những con người của lao động, những người bằng bàn tay và khối óc của mình sáng tạo ra tất cả. Tôi thuộc về đội ngũ những nhà văn coi vinh dự tối cao của mình, tự do lớn nhất của mình là khả năng được phục vụ nhân dân lao động bằng ngòi bút của mình không bị hạn chế bởi bất cứ điều gì.
Đó là xuất phát điểm của tất cả. Từ đó dẫn đến kết luận về việc tôi, với tư cách nhà văn Xô Viết, suy nghĩ như thế nào về chỗ đứng của người nghệ sĩ trong thế giới hiện đại.
Chúng ta đang sống trong những năm tháng đầy lo âu, nhưng trên mặt đất này không có một dân tộc nào mong muốn chiến tranh. Có những thế lực ném cả những dân tộc vào biển lửa chiến tranh. Chẳng lẽ tro than từ những đám cháy khổng lồ của Thế chiến II không bám nhiễm vào trái tim nhà văn? Chẳng lẽ một nhà văn trung thực không lên tiếng chống lại những kẻ muốn đưa nhân loại đến chỗ tự hủy diệt?
Đâu là thiên chức, là nghĩa vụ của người nghệ sĩ coi mình không phải là một vị thần vô cảm trước những đau khổ của con người, ngự cao trên đỉnh Olympe nhìn xuống các thế lực tranh xé nhau, mà là một đứa con của dân tộc mình, một vi phân của nhân loại?
Cần phải nói với người đọc một cách trung thực, cần phải nói với mọi người sự thật - sự thật nhiều khi là khắc nghiệt nhưng luôn ngoan cường. Cần củng cố nơi trái tim con người niềm tin vào tương lai, vào sức mạnh của mình về khả năng xây dựng cái tương lai đó. Phải là người chiến sĩ vì hòa bình ở khắp thế giới và bằng lời nói của mình đào tạo nên những chiến sĩ đó ở mọi nơi nào mà lời nói đó vang đến được. Phải đoàn kết con người trong những nỗ lực hiển nhiên và cao cả vì sự tiến bộ.
Nghệ thuật có sức tác động mạnh mẽ đến trái tim và khối óc con người. Tôi nghĩ, có quyền được gọi tên là nghệ sĩ những ai hướng sức mạnh đó đến việc kiến tạo cái đẹp trong tâm hồn mọi người vì lợi ích của nhân loại.
Dân tộc thân yêu của tôi tiến lên phía trước trên những ngả đường lịch sử không phải theo các lối đi mòn phẳng. Đó là con đường của những người khám phá, những kẻ tiên phong của cuộc sống mới. Tôi nhìn thấy trách nhiệm của mình trong tư cách một nhà văn ở chỗ: bằng tất cả những gì tôi đã và sẽ viết tôn vinh dân tộc tôi - một dân tộc lao động, dân tộc xây dựng, dân tộc anh hùng, dân tộc không tấn công ai nhưng bao giờ cũng tự trọng bảo vệ thành quả của mình, bảo vệ danh dự và tự do của mình, bảo vệ quyền xây dựng tương lai theo lựa chọn của chính mình.
Tôi muốn những cuốn sách của tôi giúp con người sống tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, đánh thức tình yêu với con người, nỗ lực đấu tranh vì những lí tưởng nhân đạo và sự tiến bộ của loài người. Nếu tôi phần nào làm được điều đó, tôi hạnh phúc.
Tôi cảm ơn tất cả những ai có mặt trong hội trường này, cảm ơn tất cả những ai đã gửi lời thăm hỏi, chúc mừng nhân dịp tôi được nhận Giải Nobel.
Đoàn Tử Huyến dịch từ nguyên bản tiếng Nga
(Nguồn: http://nobelprize.org)
© Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây